Thứ Năm, 10 tháng 2, 2011

PGS,TS Nguyễn Thế Thắng: TTHCM ve PTLĐCĐ

TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ
PHƯƠNG THỨC LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG

PGS,TS Nguyễn Thế Thắng

Từ khi chuẩn bị thành lập Đảng đến khi sáng lập Đảng ta, sau đó, trở thành Người đứng đầu Đảng, Nhà nước ta, Hồ Chí Minh giữ vai trò chủ yếu trong hoạch định đường lối của Đảng, đồng thời đề ra những nội dung lãnh đạo của Đảng và phương thức lãnh đạo của Đảng.
Có điều sinh thời, Hồ Chí Minh thường dùng cụm từ: “Cách lãnh đạo”, “cách tổ chức” các loại tổ chức chính trị và các đoàn thể nhân dân do Đảng lãnh đạo. Truy tìm nghĩa từ CÁCH trong các Từ điển Hán Việt hoặc Từ điển Tiếng Việt, CÁCH có nghĩa là phương thức, hoặc phương thức diễn ra hành động. Ngày nay, Đảng ta dùng khái niệm Phương thức lãnh đạo của Đảng chính là sự kế thừa và phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh về cách lãnh đạo của Đảng.
1- Đảng lãnh đạo cách mạng, lãnh đạo toàn xã hội thông qua đề ra cương lĩnh, đường lối đúng đắn, sáng tạo và làm cho cương lĩnh, đường lối đó thấm sâu trong toàn Đảng, toàn dân.
Khi sáng lập Đảng Cộng sản Việt Nam, năm 1930, trong Sách lược vắn tắt của Đảng được thông qua tại Hội nghị thành lập Đảng, Hồ Chí Minh vạch rõ Đảng là đội tiên phong của giai cấp vô sản. Đảng phải thu phục được đại bộ phận giai cấp mình, làm cho giai cấp mình lãnh đạo được toàn thể dân chúng.
Để lãnh đạo được cách mạng, giành chính quyền, Đảng phải thu phục được không chỉ giai cấp công nhân, mà cần phải thu phục, lôi kéo tất cả các giai tầng, các giới khác trong xã hội như: nông dân, trí thức, trung tiểu địa chủ, tư sản dân tộc, tiểu tư sản, thanh niên, phụ nữ, học sinh, binh lính,v,v đoàn kết xung quanh Đảng Cộng sản Việt Nam để đấu tranh cho mục tiêu độc lập dân tộc và CNXH. Cái để đoàn kết, dẫn đường cho toàn thể dân chúng làm cách mạng là cương lĩnh, đường lối của Đảng.
Năm 1953, tổng kết kinh nghiệm Đảng lãnh đạo Cách mạng Tháng Tám thành công, lãnh đạo, chính quyền tiến hành kháng chiến kiến quốc, chuẩn bị tiến lên CNXH, trong tác phẩm “Thường thức chính trị”, Hồ Chí Minh phân tích rõ hơn phương thức lãnh đạo của Đảng với xã hội bằng Cương lĩnh, chiến lược, bằng công tác tuyên truyền, thuyết phục cán bộ, Đảng viên và nhân dân.
“Đảng có Chính cương rõ rệt: Hiện nay giai cấp công nhân lãnh đạo toàn dân chống đế quốc, phong kiến, để giải phóng dân tộc và thực hiện dân chủ mới. Ngày sau thì tiến đến chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản”1.
“ Đảng cương là một văn kiện nó quy định: Tính chất của Đảng, mục đích đấu tranh và đường lối cách mạng của Đảng, phương pháp lãnh đạo cách mạng của Đảng. Đảng cương là lý luận nền tảng của Đảng, Đảng dùng để lãnh đạo cách mạng. Nó đảm bảo cho chính trị thống nhất, tư tưởng thống nhất của Đảng”2.
Để thực hiện được Cương lĩnh, đường lối của Đảng, Hồ Chí Minh vạch rõ nhiệm vụ xác định phương hướng, mục tiêu, nhiệm vụ cụ thể và công tác tư tưởng của Đảng trong mỗi thời kỳ.
“ Trong mỗi giai đoạn cách mạng, Đảng căn cứ vào tình hình trong nước và trên thế giới, đề ra những khẩu hiệu, mục đích và kế hoạch đấu tranh. Đảng quy định ở giai đoạn nào thì phải dựa vào lực lượng nào, đoàn kết lực lượng nào, cô lập và phân hóa lực lượng nào, để tiêu diệt kẻ thù của giai cấp, của nhân dân.
Khẩu hiệu chính trị đúng thì, thì toàn dân thấy rõ phương hướng, nhận rõ ai là bạn, ai là thù, đoàn kết chặt chẽ xung quanh Đảng đánh thắng kẻ thù của cách mạng.
Có khẩu hiệu chung cũng chưa đủ, Đảng còn phải căn cứ theo lợi ích của nhân nhân dân trong giai đoạn đó để động viên quần chúng, để làm mục đích và vạch đường lối cho quần chúng đấu tranh; đồng thời để huấn luyện giáo dục quần chúng”3.
Làm thế nào để có cương lĩnh, đường lối, khẩu hiệu cách mạng đúng đắn, sáng tạo?
Hồ Chí Minh cho rằng phương thức lãnh đạo trong mọi công tác thiết thực của Đảng, đều cần theo nguyên tắc từ trong quần chúng ra, trở lại nơi quần chúng.
“Nghĩa là gom góp mọi ý kiến rời rạc, lẻ tẻ của quần chúng, rồi phân tích nó, nghiên cứu nó, sắp đặt nó thành những ý kiến có hệ thống”4.
Như vậy, Cương lĩnh, đường lối của Đảng được hoàn thiện bởi sự tham khảo các ý kiến đóng góp của các tầng lớp nhân dân. Sau đó, Hồ Chí Minh cho rằng cần phải đem cương lĩnh đường lối đó tuyên truyền giải thích cho nhân dân, làm cho nó thành cương lĩnh, đường lối của nhân dân. Nhân dân tin tưởng, giữ vững cương lĩnh, đường lối đó để thi hành. Trong lúc nhân dân thi hành, Đảng xem xét lại các quan điểm, chủ trương của Đảng trong cương lĩnh, đường lối đó có đúng hay không?
“Rồi lại tập trung ý kiến của quần chúng, phát triển những ưu điểm, sửa chữa những khuyết điểm, tuyên truyền, giải thích, làm cho quần chúng giữ vững và thực hành”5.
Hồ Chí Minh khẳng định đó là cách làm cho đường lối quan điểm của Đảng ngày càng đúng đắn hơn. Đó là phương thức lãnh đạo cực kỳ tốt. Ngược lại, như Người chỉ rõ:
“Vì không biết gom góp ý kiến của quần chúng, kinh nghiệm của quần chúng, cho nên ý kiến của những người lãnh đạo thành ra lý luận suông, không hợp với thực tế”6.
2- Đảng lãnh đạo xã hội thông qua công tác tổ chức thực hiện đường lối, nghị quyết của Đảng và hành động gương mẫu của các cán bộ, Đảng viên.
Hồ Chí Minh khẳng định rõ: “kinh qua Đảng viên và các tổ chức của Đảng, Đảng liên hệ chặt chẽ với quần chúng, tuyên truyền, giáo dục và tổ chức quần chúng, lãnh đạo các đoàn thể cách mạng của quần chúng”7.
Điều đó nghĩa là Đảng phải lập các tổ chức Đảng trong hệ thống chính trị, giới thiệu những đảng viên ưu tú của Đảng vào các vị trí lãnh đạo chủ chốt trong hệ thống chính trị, củng cố tổ chức cơ sở Đảng và phát huy vai trò lãnh đạo, giám sát của tổ chức Đảng với Đảng viên, nêu cao tính tiền phong gương mẫu của đảng viên để lôi cuốn các tổ chức và cán bộ , đảng viên, nhân dân thực hiện tốt chính sách của Đảng, Nhà nước trên các mặt trận chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội.
Để phương thức lãnh đạo của Đảng có hiệu quả, Đảng phải làm tốt công tác cán bộ. Đảng phải có chính sách trọng dụng nhân tài, quý trọng cán bộ, trọng mỗi người có ích cho công việc chung của xã hội. Người nêu ra những nguyên tắc căn bản mà Đảng cần quán triệt trong sử dụng cán bộ.
Một là: Phải hiểu biết, đánh giá đúng cán bộ, phát hiện, sử dụng đúng nhân tài, đồng thời loại trừ người biến chất thoái hóa về chính trị, tư tưởng, đạo đức và lối sống.
Hai là: Phải cất nhắc, đề bạt cán bộ cho đúng. Thận trọng, tránh mắc sai lầm, dùng người không đúng việc. Ngay cả cán bộ có tài mà tài đó không được dùng đúng việc, thì tài đó cũng vô ích.
Ba là: Phải biết phân phối và khéo dùng cán bộ. Không phải ai cái gì cũng tốt, cái gì cũng hay. Nên phải tùy tài đức mà dùng cán bộ mà bố trí làm các việc to, nhỏ khác nhau trên các lĩnh vực khác nhau của xã hội.
Bốn là: Phải giúp cán bộ cho đúng. Luôn quan tâm đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao trình độ mọi mặt cho cán bộ. Biết động viên cán bộ kịp thời. Đồng thời giúp cán bộ sửa chữa những sai lầm khuyết điểm.
Năm là: Phải thương yêu, giữ gìn, bảo vệ cán bộ. Quan tâm đến điều kiện sinh sống, sức khỏe, hạnh phúc gia đình của cán bộ để họ có thể yên tâm phấn đấu hoàn thành nhiệm vụ.
Sáu là: Cán bộ lãnh đạo, quản lý, phải bao gồm đủ cả đức và tài, trong đó đức là gốc. Cán bộ chức vụ càng cao càng phải gương mẫu về đạo đức, nói đi đôi với làm theo tinh thần Đảng viên đi trước, làng nước theo sau.
Chủ tịch Hồ Chí Minh phân tích rõ: "Trước mặt quần chúng, không phải ta cứ viết lên trán chữ "cộng sản" mà ta được họ yêu mến... Muốn hướng dẫn nhân dân, mình phải làm mực thước cho người ta bắt chước"8. Đối với các dân tộc phương Đông nhất là ở nước ta, thì một tấm gương sống còn có giá trị hơn một trăm bài diễn văn tuyên truyền.
Đảng cầm quyền thì người lãnh đạo cấp cao, người có chức vụ càng cao phải thể hiện là tấm gương càng sáng, để cấp dưới và quần chúng noi theo, "Nhất là những người cán bộ và lãnh tụ, càng phải làm cho xứng đáng lòng tin cậy của Đảng, của dân tộc. Càng phải làm gương cho tất cả đảng viên, tất cả quần chúng noi theo"9.
3- Tăng cường Công tác Kiểm tra và sự giám sát của nhân dân
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ mục đích và ý nghĩa tác dụng của công tác kiểm tra: "Nếu tổ chức việc kiểm tra cho chu đáo thì cũng như có ngọn đèn "pha". Bao nhiêu tình hình, bao nhiêu ưu điểm và khuyết điểm, bao nhiêu cán bộ chúng ta đều thấy rõ. Có thể nói rằng: chín phần mười khuyết điểm trong công việc của chúng ta là vì thiếu sự kiểm tra"10.
Theo tư tưởng của Người công tác kiểm tra, giám sát của Đảng cần luôn được đẩy mạnh. Đảng lãnh đạo phối hợp sự kiểm tra giám sát của Đảng, của Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể, của nhân dân đối với các tổ chức trong hệ thống chính trị, tập thể và cá nhân cán bộ, đảng viên trong thực hiện chủ trương chính sách, pháp luật của Nhà nước, về trách nhiệm đối với công việc và thái độ phục vụ nhân dân
Kiểm tra không chỉ giúp cho lãnh đạo nắm chắc được chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên, ngăn ngừa khuyết điểm, sai lầm, chống được bệnh quan liêu, bệnh bàn giấy, xa rời thực tiễn, mà còn giúp cán bộ, đảng viên phát huy ưu điểm, sửa chữa khuyết điểm, thúc đẩy và giáo dục cán bộ, đảng viên hoàn thành nhiệm vụ được giao, nêu cao tính tiền phong gương mẫu trước quần chúng.
Người chỉ ra những khuyết điểm cần khắc phục trong công tác kiểm tra.
“Hiện nay còn có một số cấp ủy Đảng coi nhẹ và không chú ý lãnh đạo công tác kiểm tra. Thậm chí có ủy viên tỉnh và huyện cho công tác kiểm tra là “vạch lá tìm sâu”, làm giảm thành tích của địa phương mình,v,v. Đó là thành kiến sai lầm, cần phải sửa chữa…
Công tác kiểm tra còn bị động và nặng về giải quyết những vụ vi phạm kỷ luật trước mắt, chưa chủ động về việc giải quyết toàn diện vấn đề giữ gìn kỷ luật và chấp hành điều lệ của Đảng, để nâng cao ý thức của đảng viên và cán bộ một cách căn bản và lâu dài
Việc xử lý kỷ luật, xét thư khiếu nại làm còn chậm chạp. Kiểm tra đảng viên phạm sai lầm còn chưa chủ động. Việc hướng dẫn vận dụng phương châm kỷ luật chưa được chặt chẽ, để cho kỷ luật đảng có chỗ bị buông lỏng, vì vậy mà thiếu tác dụng giáo dục và ngăn ngừa đảng viên khỏi phạm kỷ luật”11.
Theo Người những nội dung cần phải kiểm tra là:
1-Năng lực, phẩm chất tư cách đạo đức của cán bộ, đảng viên.
2- Hoạt động của cơ quan đảng, Nhà nước có đúng với Hiến pháp, pháp luật và Điều lệ Đảng không?
3- Ưu điểm, khuyết diểm của các chủ trương, chính sách, mệnh lệnh và các nghị quyết, quyết định của Đảng, Nhà nước.
Tham gia và kiểm tra các lĩnh vực đó có các lực lượng: Lãnh đạo các cấp của Đảng, Nhà nước; Bộ máy kiểm tra, kiểm sát, thanh tra của Đảng, Nhà nước và các tổ chức chuyên môn, nghiệp vụ về kiểm tra; Quần chúng nhân dân. Trong các lực lượng nói trên, kiểm tra của quần chúng nhân dân là kiểm tra từ dưới lên, kiểm tra tại chỗ, kiểm tra trong thực tiễn, kiểm tra thường xuyên có vai trò đặc biệt quan trọng, giúp vào việc xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên và bộ máy Đảng, Nhà nước trong sạch vững mạnh.
4- Đổi mới lề lối và phong cách làm việc của Đảng và cán bộ, đảng viên.
Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định rõ:
“Phải sửa đổi lối làm việc của Đảng. Đảng ta hy sinh tranh đấu, đoàn kết, lãnh đạo nhân dân, tranh lại thống nhất độc lập. Công việc đã có kết quả vẻ vang. Nhưng nếu mỗi cán bộ, mỗi đảng viên làm việc đúng hơn, khéo hơn, thì thành tích của Đảng còn to tát hơn nữa”.
Trước hết mỗi cán bộ, Đảng viên cần rèn luyện phong cách làm việc kết hợp tính nguyên tắc cứng rắn với biện pháp thực hiện linh hoạt mềm dẻo, để có bản lĩnh chính trị vững vàng trước mọi khó khăn thử thách, hoàn thành được mọi nhiệm vụ trong một thế giới đầy biến động khó lường với tinh thần “Dĩ bất biến ứng vạn biến”.
Cán bộ đảng viên cần có phong cách làm việc kết hợp tính nhiệt tình cách mạng với tính khoa học. “ Muốn nên sự nghiệp lớn, tinh thần càng phải cao”. Say mê, tận tụy với công việc, nhưng đồng thời phải có hiểu biết lý luận, khoa học, văn hóa, chuyên môn nghiệp vụ. Vì nếu chỉ có nhiệt tình mà dốt nát sẽ thành kẻ đại phá hoại.
Cán bộ, đảng viên cần kết hợp cách làm việc dân chủ tập thể với tính quyết đoán và tinh thần trách nhiệm cá nhân cao độ. Biết phát huy trí tuệ tập thể, đồng thời dám chịu trách nhiệm cá nhân trước tập thể, đơn vị, địa phương mình lãnh đạo, quản lý để quyết định những công việc quan trọng ích nước lợi dân trong những thời điểm then chốt. Có vậy, tập thể, đơn vị, địa phương mới có thể tiến lên. Quyết đoán đúng thời cơ cực kỳ quan trọng:
“Lạc nước hai xe đành bỏ phí
Gặp thời một tốt cũng thành công”.
Cán bộ, Đảng viên cần có phong cách làm việc có tính quần chúng, sâu sát cơ sở, thường xuyên liên hệ mật thiết với nhân dân. Để có thể dẫn dắt, lãnh đạo, quản lý quần chúng, cán bộ, đảng viên phải biết lắng nghe, tin tưởng, học hỏi quần chúng nhân dân. Cán bộ, đảng viên phải phấn đấu làm cho dân tin, dân phục , dân yêu và biết dựa vào sức mạnh của quần chúng nhân dân thì có thể hoàn thành tốt các nhiệm vụ cách mạng.
* *
*
Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định Đảng ta là một Đảng cầm quyền. Để giữ vai trò lãnh đạo chính quyền, Đảng phải chống được những nguy cơ dẫn đến suy yếu và mất vai trò lãnh đạo của một Đảng cầm quyền. Đó là chống được nguy cơ sai lầm về đường lối. Chống được sự thoái hóa biến chất trong đội ngũ cán bộ Đảng viên, để thực sự trong sạch, vững mạnh, thực sự là tấm gương tiêu biểu trong xã hội về đạo đức và văn minh. Muốn vậy, một điều căn bản phải được thực hiện như trong Di chúc Người căn dặn:
“Mỗi cán bộ đảng viên phải thật sự thấm nhuần đạo đức cáh mạng, thật sự cần kiệm liêm chính, chí công vô tư. Phải giữ gìn Đảng ta thật trong sạch, phải xứng đáng là người lãnh đạo, người đầy tớ trung thành của nhân dân”12.
Hà Nội, tháng 12-2010

CHÚ THÍCH:
1 Hồ Chí Minh: Toàn tập, tập 7, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996, tr 230.
2 Hồ Chí Minh: Toàn tập, tập 7,S. đ.d. tr 236.
3 Hồ Chí Minh: Toàn tập, tập 7,S. đ.d. tr 232.
4 Hồ Chí Minh: Toàn tập, tập 5, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, tr 290.
5 Hồ Chí Minh: Toàn tập, tập 5, S.đ.d, tr 290-291.
6 Hồ Chí Minh: Toàn tập, tập 5, S.đ.d, tr 291.
7 Hồ Chí Minh: Toàn tập, tập 7,S. đ.d. tr 232-233.
8 Hồ Chí Minh: Toàn tập, tập 5, S.đ.d, tr 552.
9 Hồ Chí Minh: Toàn tập, tập 5, S.đ.d, tr 253.
10 Hồ Chí Minh: Toàn tập, tập 5, S.đ.d, tr 521.
11 Hồ Chí Minh: Toàn tập, tập 11, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996, tr 300-301.
12 Hồ Chí Minh: Toàn tập, tập 12, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996, tr 510.

PGS,TS Nguyễn Thế Thắng: Đổi mới PPGDTTHCM

ĐỔI MỚI PHƯƠNG PHÁP GIẢNG DẠY
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
THEO TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
PGS,TS Nguyễn Thế Thắng
ĐẶT VẤN ĐỀ
Đối với các thày giáo và học sinh, sinh viên, học viên chúng ta, Chủ tịch Hồ Chí Minh chẳng những là Nhà tư tưởng lớn, Lãnh tụ thiên tài, mà còn là một Nhà Giáo vĩ đại. Cho nên, hạnh phúc với chúng ta là nghiên cứu, vận dụng tư tưởng của Người về giáo dục vào việc giảng dạy lý luận chính trị, nhất là vào việc giảng dạy tư tưởng Hồ Chí Minh, một bộ phận quan trọng cấu thành Bộ môn Hồ Chí Minh học có mã số 60 31 27.
1- Tính cấp thiết đổi mới phương pháp giảng dạy tư tưởng Hồ Chí Minh
Việc dạy và học tư tưởng Hồ Chí Minh trong các trường Cao đẳng, Đại học, cũng như trong hệ thống Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh đang được thực hiện tích cực. Song, có thể nói, việc đó chưa đạt đến trình độ phát triển mạnh với hiệu quả cao nhất. Để cho việc học tập, giảng dạy tư tưởng Hồ Chí Minh phát triển mạnh cả về bề nổi, bề rộng và đi sâu được vào cuộc sống, nhất định phải đổi mới phương pháp giảng dạy, nhằm làm cho người học nắm được thực chất cách mạng, khoa học, sự thống nhất giữa lý luận và thực tiễn, nói đi đôi với làm trong tư tưởng Hồ Chí Minh, để người học thực sự vừa học tập, vừa làm theo tư tưởng cuả Người.
Hơn nữa, cần đổi mới phương pháp giảng dạy sao cho người học tăng cường sức đề kháng đối với sự xuyên tạc của các thế lực thù địch đối với tư tưởng Hồ Chí Minh, chống lại âm mưu hạ bệ thần tượng của chúng.
Cần đổi mới phương pháp giảng dạy tư tưởng Hồ Chí Minh, nhằm khắc phục tình trạng người giảng đọc cho người học chép. Học sinh, sinh viên, học viên học thuộc lòng, không suy nghĩ, không vận dụng được kiến thức vào cuộc sống. Khắc phục việc học tập để phô trương, chỉ có hình thức, tốn kém, ít tác dụng, v,v.
2- Cần xác định rõ hơn, cụ thể hơn mục đích, mục tiêu giảng dạy, học tập của cả bộ môn và từng bài giảng.
Nếu nói mục đích chung của việc giảng dạy và học tập, dường như ai cũng biết cả. Song, có thực sự quán triệt được mục đích đó không trong thực tế, chính lại là cái quyết định thành công của người giảng và người học. Peter flene một nhà giáo Mỹ- Chuyên gia về phương pháp giảng dạy cho rằng, tiền đề để giảng dạy thành công, thành một nhà giáo giỏi, thì phải trả lời được câu hỏi:
“Tại sao bạn muốn đi dạy?”1.
Còn Hồ Chí Minh thường khuyên các thày giáo trước khi lên bục giảng cần phải xác định, trả lời rõ mấy câu hỏi.
Nói cái gì?
Vì ai mà nói?
Nói để làm gì?
Đồng thời cần xác định cho người học rõ:
Học để làm gì?
Học để phục vụ ai?
Người khuyên: “Các thày giáo cô giáo phải tìm cách dạy. Dạy cái gì, dạy thế nào để học trò hiểu chóng, nhớ lâu, tiến bộ nhanh. Dạy và học cần phải theo nhu cầu của dân tộc, của Nhà nước”2.
Theo quan điểm đó, các thày cô giáo chúng ta trước sự nghiệp cuộc đời cũng như mỗi khi lên bục giảng không thể không ngộ rõ sứ mệnh cao cả của bộ môn mình. Đó là giúp cho người học thấm nhuần sâu sắc hệ thống quan điểm và phương pháp cách mạng Hồ Chí Minh, nâng cao thêm lòng yêu nước, tinh thần phục vụ nhân dân, đạo đức cách mạng, để làm cho chủ nghĩa Mác -Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh thực sự trở thành nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam hành động cho chúng ta trong cuộc sống và sự nghiệp của mình.
Không những vậy, hằng ngày, trước khi vào mỗi bài giảng vẫn cần xác định rõ: Mục tiêu bài giảng này cần đạt là cái gì? Thí dụ như: Ta muốn học viên nắm vững cái gì ở bài Tư tưởng Hồ Chí Minh về Đảng Cộng sản. Đặc biệt là ở thời điểm hiện nay- các tổ chức Đảng đang chuẩn bị đại hội để tiến tới Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI?
Hoặc ta muốn học viên cần cái gì ở bài Tư tưởng Hồ Chí Minh về Đoàn kết, về Đạo đức, về Văn hóa, v,v. trong tình hình có sự thoái hóa, biến chất của một bộ phận không nhỏ cán bộ, Đảng viên,v,v.
Xác định rõ mục tiêu bài giảng, đáp ứng nhu cầu nhận thức của học viên, bài giảng mới tránh được việc nói chính trị suông, khô khan, trống rỗng.
3- Quán triệt triết lý Hồ Chí Minh về giảng dạy lý luận chính trị
Trên các diễn đàn về giáo dục thời gian qua, nổi lên vấn đề đi tìm triết lý gíao dục cho sự đổi mới công tác giáo dục. Theo tôi, có thể hình thành nên một triết lý giáo dục cho công tác giáo dục lý luận chính trị của chúng ta, từ việc nghiên cứu, vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh, kết hợp với quán triệt các quan điểm cơ bản của Đảng ta về giáo dục và tiếp biến chọn lọc lý luận, kinh nghiệm giáo dục, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ của các nước trên thế giới hiện nay.
Chúng ta cần có một nền giáo dục với việc dạy và học vì mục tiêu xây dựng một xã hội ”Dân giàu, nước mạnh”3, dân chủ, công bằng, văn minh.
Hồ Chí Minh chỉ rõ: Một dân tộc dốt là một dân tộc yếu. Nên giáo dục là quốc sách hàng đầu trong chấn hưng dân tộc. Giáo dục lý luận chính trị là một công tác căn bản trong đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ của Đảng, Nhà nước, Đoàn thể nhằm phục vụ việc thực hiện đường lối, chiến lược phát triển kinh tế- xã hội của Đảng, Nhà nước ta.
Triết lý, quan điểm và mục tiêu công tác giáo dục lý luận chính trị nằm ngay trong luận điểm của Lênin mà Chủ tịch Hồ Chí Minh thường nhắc lại với cán bộ, Đảng viên:
“Không có lý luận cách mạng thì không có phong trào cách mạng” và “Chỉ có một Đảng có lý luận tiền phong hướng dẫn thì mới có thể làm tròn được vai trò chiến sĩ tiền phong”. Do đó, Người khẳng định:
“Đảng ta tổ chức trường học lý luận cho cán bộ là để nâng cao trình độ lý luận của Đảng ta đặng giải quyết sự đòi hỏi của nhiệm vụ cách mạng và tình hình thực tế của Đảng ta, để Đảng ta có thể làm tốt hơn công tác của mình, hoàn thành tốt hơn nhiệm vụ cách mạng vĩ đại của mình”4.
Triết lý giáo dục lý luận chính trị Hồ Chí Minh thể hiện rõ trong lời ghi của Người ở trang đầu cuốn sổ vàng của Trường Nguyễn Ái Quốc Trung ương tháng 9 năm 1949:
“Học để làm việc, làm người, làm cán bộ. Học để phụng sự Đoàn thể, Giai cấp và nhân dân, Tổ quốc và nhân loại. Muốn đạt mục đích, thì phải Cần, kiệm, liêm, chính, Chí công vô tư.”5
Mỗi bài giảng về tư tưởng Hồ Chí Minh sao cho đều góp phần vào việc giúp cho người học có mong muốn và phương pháp làm việc của mình tốt hơn khi chưa học. Trải qua học tập tư tưởng và tấm gương Hồ Chí Minh, thấy rõ hơn con đường sống, phấn đấu để trước hết làm một con người với nghĩa cao đẹp nhất của nó, và tiếp đó, thành một cán bộ tốt, biết phục vụ tổ quốc và nhân dân một cách có hiệu quả nhất.
4- Một số nguyên tắc làm cho nội dung bài giảng tư tưởng Hồ Chí Minh sâu sắc.
Một là, Nắm vững tiểu sử, hoạt động với các bài nói, bài viết của Chủ tịch Hồ Chí Minh liên quan đến việc hình thành các nguyên lý lý luận.
Ở Hồ Chí Minh có một sự nhất quán cao độ giữa tư tưởng và hành động, nói và làm. Người nổi tiếng là một nhà triết lý hành động. Những luận điểm lý luận quan trọng của người đều là sự đúc rút từ khảo sát lý luận và tổng kết thực tiễn, từ trải nghiệm trong cuộc đời hoạt động cách mạng đầy sóng gió của Người. Nên mỗi luận điểm đều có nguồn gốc, hoàn cảnh ra đời và quá trình hoàn thiện của nó. Chứ không phải nó bỗng dưng được Người sáng suốt nghĩ ra. Nên giảng viên tư tưởng Hồ Chí Minh, hơn ai hết phải có hiểu biết sâu sắc về thân thế, sự nghiệp Hồ Chí Minh, nhất là những hoạt động của Người liên quan đến việc nảy sinh các luận điểm cách mạng và sự vận dụng những luận điểm đó của Người và của Đảng ta trong thực tiễn lãnh đạo cách mạng và cả trong đối nhân xử thế nữa.
Phương pháp lịch sử cụ thể ở giảng viên phải nhuần nhuyễn đến mức thành cảm hứng truyền sang cho người học, tạo thành một phong cách học tập, nghiên cứu và làm việc như Hồ Chí Minh từng yêu cầu:
“Đối với bất cứ vấn đề gì đều cần phải đặt câu hỏi “vì sao?”, đều phải suy nghĩ kỹ càng xem nó có hợp với thực tế không, có thật đúng lý không, tuyệt đối không nên nhắm mắt tuân theo sách vở một cách xuôi chiều”6.
Hai là, Không nên chỉ nắm ngọn, mà cần hiểu rõ các nguồn gốc lý luận trực tiếp dẫn tới hình thành luận điểm cách mạng của Hồ Chí Minh.
Từ bài đầu tiên trong bộ môn tư tưởng Hồ Chí Minh, người dạy và người học đều đã rõ các nguồn gốc hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh. Song, mục đích của việc chỉ ra nguồn gốc tư tưởng Hồ Chí Minh, chắc không phải chỉ để biết Tư tưởng Hồ Chí Minh có những nguồn gốc cụ thể nào. Quan trọng hơn là ý nghĩa phương pháp luận của vấn đề đó đối với cả người dạy và người học. Cần hình thành một phương pháp làm việc hiệu quả trong công tác lý luận nói chung, cũng như trong giảng dạy tư tưởng Hồ Chí Minh.
Tránh cho bài giảng tư tưởng Hồ Chí Minh nông cạn, kém hấp dẫn, người dạy cần có một phông văn hóa sâu rộng, ít nhất trong đó có sự hiểu biết về những truyền thống tư tưởng văn hóa, các học thuyết lớn cổ kim, Đông Tây mà Hồ Chí Minh đã chú trọng kế thừa tinh hoa trong hoạch định đường lối cách mạng và các chính sách phát triển kinh tế-xã hội, hình thành nên tư tưởng Hồ Chí Minh. Thí dụ như cần hiểu biết về Lý thường Kiệt, Trần Hưng Đạo, Nguyễn Trãi và chủ nghĩa Mác Lê nin mới làm cho việc truyền thụ những nhận định về đường lối và phương pháp cách mạng Hồ Chí Minh thêm sinh động. Bởi trong đường lối, phương pháp cách mạng của Người chứa đựng tính kiên định, sắc sảo, nhạy bén của Lênin; tính độc lập tự chủ tự cường của Lý Thường Kiệt, lòng nhân ái bao dung của Nguyễn Trãi; tài thao lược quân sự của Trần Hưng Đạo và sức mạnh thần tốc của Nguyễn Huệ.
Hiểu rõ Tuyên ngôn độc lập, Hiến pháp nước Mỹ; sự nghiệp của Tổng thống Oa-sinh-tơn thời lập nước Mỹ, tư tưởng sự nghiệp của Tổng thống Jep-phec-sơn, Tổng thống Linh-côn; hiểu rõ Bản Tuyên Ngôn Nhân quyền và dân quyền của nước Pháp, các tư tưởng về tự do Bình Đẳng, Bác ái, về Nhà nước pháp quyền trong tư tưởng văn hóa Phương Tây mới càng thấy rõ thêm bản lĩnh sáng tạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong sáng lập, lãnh đạo xây dựng Nhà nước của dân do dân vì dân ở nước ta.
Càng hiểu rõ các quan điểm về đạo đức, về con người của Nho giáo, Phật giáo, Đạo giáo, của triết học Mác- Lê nin, càng có thêm nội lực văn hóa và trí tuệ cảm xúc khi thuyết giảng tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh. Một nền tảng tư tưởng văn hóa sâu rộng, vững chắc như thế đã làm nên sức sống mãnh liệt và hiệu quả to lớn của tư tưởng Hồ Chí Minh. Cho nên, ngày nay, để tìm kiếm giải pháp cho những vấn đề lớn, phức tạp nảy sinh trong lý luận và thực tiễn của sự nghiệp đổi mới và cả trong cuộc sống của mỗi chúng ta, không thể không học theo phương pháp làm việc Hồ Chí Minh. Trước hết là cần biết kế thừa truyền thống tư¬ tư¬ởng văn hoá của dân tộc ta; tiếp biến tinh hoa văn hoá, t¬ư t¬ưởng nhân loại. Đặc biệt là biết vận dụng, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong thực tế công tác của mình.
Ba là- Hiểu rõ những vấn đề khoa học, lý luận cơ bản mà tư tưởng Hồ Chí Minh đề cập, có phương pháp liên ngành.
Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam. Trong hệ thống quan điểm đó, dường như, mỗi quan điểm cơ bản của Hồ Chí Minh đều có một môn khoa học hoặc một số bộ môn khoa học tương ứng nghiên cứu. Cho nên, Người giảng tư tưởng Hồ Chí Minh từng bước một cần nắm được tri thức khoa học cơ bản của những bộ môn tương ứng đó.
Thí dụ như, giảng tư tưởng Hồ Chí Minh về Đảng cộng sản, cần biết các vấn đề lý luận và thực tiễn có liên quan đến tư tưởng Hồ Chí Minh đã được đề cập đến ở các góc độ khoa học lịch sử Đảng, Xây dựng Đảng.
Giảng tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và pháp luật cần có tri thức khoa học về nhà nước và pháp luật.
Giảng tư tưởng Hồ Chí Minh về Đạo đức, về Văn hóa, cần hiểu biết triết học, Đạo đức học, Tri thức văn hóa và phát triển, văn hóa học, v,v. Người càng có hiểu biết chuyên môn sâu sắc về các lĩnh vực đó bao nhiêu, thì khả năng khai thác, truyền giảng tư tưởng Hồ Chí Minh về các lĩnh vực đó bấy nhiêu.
Tuy khó có thể có được hiểu biết như các chuyên gia đầu ngành về nhiều lĩnh vực khoa học, nhưng việc có hiểu biết tốt các khoa học liên quan đến Hồ Chí Minh học, sẽ giúp cho việc giảng dạy Hồ Chí Minh học nói chung và tư tưởng Hồ Chí minh thêm sâu sắc và có hiệu quả cao.
Bốn là- Thừa kế những nhận định, đánh giá của các Đảng ta, của các vị lãnh đạo, Đảng, Nhà nước về Hồ Chí Minh. Thừa kế các nghiên cứu của các học giả lớn về Hồ Chí Minh.
Đây chính là hướng quán triệt sâu sắc tính Đảng và tính khoa học trong nghiên cứu giảng dạy tư tưởng Hồ Chí Minh.
Tư tưởng Hồ Chí Minh không chỉ là trí tuệ cá nhân Hồ Chí Minh, đó cũng là kết tinh trí tuệ và kinh nghiệm đấu tranh của Đảng ta. Những tinh hoa trí tuệ, kinh nghiệm đó còn được thể hiện ở những lãnh tụ Đảng và Nhà nước ta, đặc biệt ở những vị lãnh đạo Đảng, Nhà nước kiệt xuất, đồng thời là những học trò xuất sắc, là cộng sự trung thành của Hồ Chí Minh. Như các đồng chí Trường Chinh, Lê Duẩn, Phạm Văn Đồng, Võ Nguyên Giáp. Đó cũng chính là những người có công đầu trong việc cụ thể hóa, bảo vệ, phát triển và truyền bá rộng rãi tư tưởng Hồ Chí Minh. Cho đến nay, việc tìm hiểu các bài nói, bài viết của các nhà lãnh đạo Đảng, Nhà nước đó vẫn cho ta những định hướng cơ bản trong nghiên cứu, bảo vệ và phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh trong sự nghiệp đổi mới.
Nghiên cứu các văn kiện Đảng từ Đại hội II năm 1951 cho đến Đại hội X hiện nay, các bài nói, bài viết của các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước qua các thời kỳ, chúng ta càng có thêm bản lĩnh chính trị, lập trường vững chắc trong vận dụng, phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh trong sự nghiệp đổi mới. Một lĩnh vực có thể nói là khó khăn nhất trong nghiên cứu, giảng dạy tư tưởng Hồ Chí Minh. Song, lại có thể có đóng góp thiết thực cho công tác tư tưởng, lý luận của Đảng ta.
Một yêu cầu có tính nguyên tắc trong khoa học là để có cái mới khoa học, Người đi sau phải biết đứng trên vai người đi trước. Tức là biết kế thừa thành quả nghiên cứu của người đi trước. Hơn nữa, chúng ta lại đang sống trong thời kỳ bùng nổ thông tin về tư tưởng Hồ Chí Minh. Hàng ngày, hàng giờ xuất hiện nhiều bài nói, bài viết, tác phẩm văn hóa, nghệ thuật về Hồ Chí Minh ra đời. Các công trình đó nói về Hồ Chí Minh từ nhiều góc độ khác nhau.
Những người tham gia công tác đào tạo cán bộ lý luận chính trị và truyền thông cần sáng suốt phân biệt đúng sai, thật giả, nghiêm túc, hay cẩu thả, vô trách nhiệm trong các ấn phẩm về Hồ Chí Minh. Thấy rõ tính gay go, phức tạp thậm chí quyết liệt trên mặt trận tư tưởng văn hóa hiện nay xung quanh vị anh hùng giải phóng dân tộc và danh nhân văn hóa Hồ Chí Minh.
Ta cần kịp thời tranh thủ những kết quả mới và tiến bộ trong các nghiên cứu về Hồ Chí Minh, đặc biệt là thành tựu của các học giả lớn và tiến bộ. Đó là một điều kiện cần thiết để nâng cao tính khoa học, nâng cao chất lượng nghiên cứu, giảng dạy Hồ Chí Minh. Mặt khác, dám lên tiếng bác bỏ một cách khoa học những sai trái trong các luận điệu xuyên tạc, bôi nhọ Hồ Chí Minh, nhằm hạ bệ thần tượng Hồ Chí Minh.
5- Kết hợp các phương pháp, kỹ năng dạy học truyền thống và hiện đại.
Hiện nay đang có nhiều ý kiến khác nhau trong sử dụng các phương pháp giảng dạy. Đã có nhiều người nêu ra những yếu kém của phương pháp thuyết trình truyền thống. “Đọc chép” là sự mỉa mai giành cho nhưng người chỉ biết thuyết giảng, thậm chí truyết giảng kém.
Cũng đã có nhiều người tâm huyết trong quảng bá các phương pháp giảng dạy hiện đại. Song, cũng có người nghi ngờ hiệu quả của việc ứng dụng các phương pháp giảng dạy hiện đại vào các môn lý luận chính trị, hoặc phê phán sự lạm dụng các phương tiện giảng dạy hiện đại, luyến tiếc, đề cao những ưu điểm của phương pháp thuyết trình truyền thống, v,v.
Theo tinh thần tư tưởng Hồ Chí Minh, chúng tôi cho rằng cần có sự kế thừa những ưu điểm trong phương pháp thuyết trình, kết hợp với vận dụng sáng tạo các phương pháp, kỹ năng giảng dạy hiện đại. Tranh thủ ứng dụng công nghệ thông tin trong giảng dạy tư tưởng Hồ Chí Minh. Sao cho kích thích khả năng tự học, tự nghiên cứu của người học phát triển mạnh. Nhất là người học lại đang hoặc sẽ là các cán bộ lý luận chính trị và truyền thông của Đảng, Nhà nước ta.
Song, dù là sử dụng phương pháp truyền thống hay hiện đại, cần xác định rõ nghề dạy học đòi hỏi kết hợp hài hòa tính khoa học và nghệ thuật. Giảng viên đào tạo cán bộ lý luận chính trị và truyền thông trước hết nên là nhà chính trị, nhà khoa học chính trị và cần có phong cách sư phạm đạt đến trình độ kỹ năng, kỹ xảo và nghệ thuật được thể hiện bằng một tâm hồn nghệ sĩ, mới có thể đạt đến đỉnh cao nghề nghiệp.
Hồ Chí Minh từ lâu đã là đối tượng của nhiều ngành văn hóa, nghệ thuật. Đã có nhiều sáng tác về Hồ Chí Minh rất thành công, đi sâu vào lòng người Việt Nam. Những đoạn phim hay, những bức ảnh đẹp, Những bài thơ hay, những bài hát hay về Hồ Chí Minh nếu được chọn lọc, sử dụng đúng chỗ, đúng lúc, sát với nội dung bài giảng, có giá trị nâng cao hiệu quả bài giảng. Bài giảng lôi cuốn, hấp dẫn người học hơn. Người học hiểu sâu, dễ nhớ tư tưởng Hồ Chí Minh hơn. Bởi “Trăm nghe không bằng một thấy”.
Giống như khi sử dụng phương pháp truyền thống, Sử dụng phương pháp và phương tiện hiện đại trong giảng dạy cũng có người làm hay và cũng có người làm dở. Không phải cứ sử dụng cái hiện đại là thành công, mà vấn đề là khả năng, tài năng thực sự của người dạy sử dụng các phương pháp và phương tiện hiện đại. Cái tài năng ấy không phải ở trên trời rơi xuống mà là kết quả của công phu học tập và rèn luyện lâu dài trong thực tế giảng dạy.
6- Giáo dục, cổ vũ thái độ, động cơ người học làm theo lời khuyên của Hồ Chí Minh về nghiên cứu, học tập lý luận.
Việc đổi mới phương pháp giảng dạy cần được kết hợp với đổi mới phương pháp học tập của người học. Ở đây, chỉ xin nêu một trách nhiệm của các thày cô giáo là cần giáo dục, cổ vũ thái độ, động cơ người học làm theo lời khuyên của Hồ Chí Minh về nghiên cứu, học tập lý luận. Người học cần có động cơ thái độ học tập tốt, kết quả học tập mới tốt.
Cán bộ lý luận chính trị và truyền thông học tập tư tưởng Hồ Chí Minh muốn có hiệu quả, dứt khoát cần tự trả lời và thực hiện đúng 3 câu hỏi của Hồ Chí Minh đặt ra: Học để làm gì? Học để phục vụ ai? Học thế nào?.
Thấm nhuần triết lý giáo dục lý luận Hồ Chí Minh: học để làm việc, làm người, làm cán bộ, để phục vụ Đảng, Nhân dân, tổ quốc và nhân loại sẽ có động cơ, thái độ học tập đúng đắn và cao thượng.
Còn Học thế nào? là vấn đề phương pháp. Hồ Chí Minh chỉ rõ:
Một là: lý luận liên hệ với thực tế, học đi đôi với hành. Nghĩa là:
“Học tập lý luận thì nhằm mục đích học để vận dụng chứ không phải học lý luận vì lý luận, hoặc vì tạo cho mình một cái vốn lý luận để sau này đưa ra mặc cả với Đảng. Tất cả những động cơ học tập không đúng đắn đều phải tẩy trừ cho sạch.
Không phải học để thuộc lòng từng câu từng chữ.’’7 Hoặc học chỉ cốt để có đủ bằng cấp theo tiêu chuẩn hóa cán bộ.
Học tập tư tưởng Hồ Chí Minh là hoc tập tinh thần xử trí mọi việc, đối với mọi người và đối với bản thân mình của Hồ Chí Minh. Học tập những chân lý trong tư tưởng Hồ Chí Minh để áp dụng một cách sáng tạo vào hoàn cảnh của mình.
Hai là: “Phải khiêm tốn thật thà. Trong Đảng ta trình độ lý luận còn thấp kém, không ai có thể tự xưng là mình giỏi lý luận”8. Hiện nay, cũng không ai có thể tự nhận mình là giỏi, nắm vững toàn bộ tư tưởng Hồ Chí Minh rồi, không cần tiếp tục học tập nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh nữa.
Ba là: “Phải tự nguyện tự giác, xem công tác học tập cũng là một nhiệm vụ mà người cán bộ cách mạng phải hoàn thành cho được”9.
Bốn là: “Phải nêu cao tác phong độc lập suy nghĩ và tự do tư tưởng. Đọc tài liệu thì phải đào sâu hiểu kỹ, không tin một cách mù quáng từng câu một trong sách, có vấn đề gì chưa thông suốt thì mạnh dạn đề ra và thảo luận cho vỡ lẽ”10.
Năm là: “Phải bảo vệ chân lý, phải có nguyên tắc tính, không được ba phải, điều hòa”4.
Sáu là: ”Phải đoàn kết giúp đỡ lẫn nhau học tập, mạnh dạn phê bình và tự phê bình và khi phê bình, tự phê bình thì phải xuất phát từ ý muốn đoàn kết, để đạt đến đoàn kết mới trên cơ sở mới”11
7- Phong cách thầy giáo giảng tư tưởng Hồ Chí Minh.
Nhà giáo nổi tiếng Peter flene cho rằng, muốn trở thành nhà giáo thành công phải trả lời được một câu hỏi cốt yếu nữa: ”Đâu là mẫu hình người giảng viên mà bạn muốn trở thành”12.
Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định rõ:
“Người thày giáo tốt-Thày giáo xứng đáng là thầy giáo là người vẻ vang nhất. Dù tên tuổi không đăng trên báo, không được thưởng huân chương, song những người thầy giáo tốt là những anh hùng vô danh”13. Nhiệm vụ của cô giáo, thày giáo là rất quan trọng và vẻ vang. Cô giáo, thầy giáo cần phải có chí khí cao thượng. Có tài có đức, trong đó đạo đức là gốc.
Cái gốc đạo đức tốt làm nên những thầy giáo tốt. Họ là những người giúp học viên học tập thành công, để lại dấu ấn, ảnh hưởng lâu dài trong tâm trí nhiều thế hệ học viên. Giảng dạy tư tưởng Hồ Chí Minh là trực tiếp góp phần vào sự nghiệp trồng người, nên chữ Tâm, chữ Đức cực kỳ quan trọng. Có Tâm, có Đức, thầy giáo tư tưởng Hồ Chí Minh thật sự đóng góp một cách thiết thực cho cuộc đời bằng việc giáo hóa đạo đức và sự bình an nội tâm cho các cán bộ, Đảng viên và nhân dân.
Để đạt được điều đó, chúng ta phải tu dưỡng và học rất nhiều trong suốt cả cuộc đời mình. Học và cần cù chịu khó thực hành để chuyển hóa tâm hồn mình trở nên thanh cao, thánh thiện. Chúng ta phải học để tu dưỡng đạo đức, nâng cao năng lực, hiểu biết mọi mặt, còn việc bằng cấp, danh hiệu là hệ quả tự nhiên phải đến chứ không phải mục tiêu chính.
Việc tu dưỡng, phấn đấu ấy âm thầm mà vất vả, chỉ có chính mình và Trời biết, ngoài ra không mong có ai biết để khen ngợi hay khuyến khích. Chính vì vậy chỉ những ai có thiện tâm sâu dày, yêu nghề và tự giác rất cao mới có thể tự nguyện hằng ngày hằng giờ tu dưỡng, học hỏi không ngừng.
Phong cách của người thầy giáo đắc đạo Hồ Chí Minh, phải chăng cũng có nét giống vị chân Nho và người Mác xít biết làm chủ bản thân mình, sống với đồng chí, đồng nghiệp có nghĩa, có tình, ung dung, điềm đạm, hiền lành, vui vẻ, chân thành và giản dị.
Muốn phát huy tác dụng những đạo lý Hồ Chí Minh mà ta thuyết giảng, trước hết cần chúng ta cần bắt đầu từ chính tâm mình. Chúng ta không nên sốt ruột khi thấy trong dư luận xã hội có ý kiến cho rằng, học thì dễ, nhưng làm theo tư tưởng Hồ Chí Minh thì khó. Nhiều ngày tháng tu dưỡng đạo đức và tài năng, khiến ta sẽ đến ngày có nội lực thuyết phục rất cao với những người học chân chính. Khi đó mỗi lời Hồ Chí Minh ta truyền đạt sẽ có đạo lực “nặng như núi, mạnh như bão tố, cuốn hút như xoáy nước sâu khiến nhiều người phải thức tỉnh và làm theo’’.
Phong cách một người thầy chân chính theo tư tưởng Hồ Chí Minh thường chân thành, khiêm hạ, tự nhiên, ít tự đề cao mình, dù có trí tuệ sâu sắc cũng cẩn thận không chê bai người mà chỉ như người anh hùng vô danh giữa đời thường sôi động.
KẾT LUẬN
Trên đây là một chút suy nghĩ và trải nghiệm của tôi trong quá trình nghiên cứu và giảng dạy tư tưởng Hồ Chí Minh. Xin mạnh dạn chia sẻ cùng cuộc Hội thảo Phát huy di sản Hồ Chí Minh vào sự nghiệp đào tạo cán bộ lý luận chính trị và truyền thông của Học viện Báo chí Tuyên truyền, Học viện Chính trị-Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh.
Xin cảm ơn các đồng nghiệp!
Chúc Hội nghị thành công tốt đẹp./.
Hà Nội, ngày 31/3/2010 CHÚ THÍCH:

1 Peter flene: Niềm vui dạy học, NXB Văn hóa Sài Gòn, 2008, tr 27.

2 Hồ Chí Minh: Toàn tập, T8, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996, tr 138.

3 Hồ Chí Minh: Toàn tập, tập 8, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996, tr 226.

4 Hồ Chí Minh: Toàn tập, tập 8, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996, tr 492.

5 Hồ Chí Minh: Toàn tập, tập 5, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, tr 684.

6 Hồ Chí Minh: Toàn tập, T8, S.đd, tr 500.

7 Hồ Chí Minh: Toàn tập,T8, Sđd, tr.497.

8 Hồ Chí Minh: Toàn tập,T8, Sđd, tr 499.

9 Hồ Chí Minh: Toàn tập,T8, Sđd, tr 499.

10 Hồ Chí Minh: Toàn tập,T8, Sđd, tr 500.

11 Hồ Chí Minh: Toàn tập,T8, Sđd, 500.

12 Peter flene: Niềm vui dạy học, NXB Văn hóa Sài Gòn, 2008, tr 27.

13 Hồ Chí Minh: Toàn tập, T11, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996, tr 331.