Chủ Nhật, 7 tháng 10, 2012

TẬP THỂ LÃNH ĐẠO, CÁ NHÂN PHỤ TRÁCH THEO TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH


25-08-2012

PGS,TS Nguyễn Thế Thắng*

Tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách theo tư tưởng Hồ Chí Minh, là một nguyên tắc xây dựng Đảng đồng thời là một phong cách làm việc của người đứng đầu, của cán bộ lãnh đạo, quản lý trong hệ thống chính trị ở nước ta.

Trong xây dựng Đảng, từ C.Mác, V.I. Lê-nin đến Chủ tịch Hồ Chí Minh đều coi trọng nguyên tắc tập trung dân chủ, coi đó là nguyên tắc số 1 trong xây dựng Đảng. Trong điều kiện Đảng cầm quyền, biểu hiện cụ thể của nguyên tắc đó chính là nguyên tắc tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách. Việc thực hiện nguyên tắc tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách trong Đảng thống nhất với việc thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ trong bộ máy nhà nước và trở thành một phong cách làm việc cần thiết của cán bộ lãnh đạo, quản lý. Chủ tịch Hồ Chí Minh xác định, đó là “cách làm việc tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách”1. Việc thực hiện đúng đắn nguyên tắc và phong cách làm việc này có ý nghĩa quan trọng đối với việc xây dựng Đảng cầm quyền trong sạch, vững mạnh.

Sự cần thiết và nội dung của “tập thể lãnh đạo”

Tập thể lãnh đạo cần thiết cho toàn Đảng Đảng cũng như cho mỗi cấp uỷ, bởi Đảng cũng như mỗi cấp uỷ có trách nhiệm định hướng chính trị cho sự tồn tại và phát triển của đất nước, của mỗi địa phương, đơn vị mà Đảng lãnh đạo. Muốn hoàn thành tốt bổn phận, trách nhiệm đó, Đảng, cũng như mỗi cấp uỷ phải mở rộng dân chủ trong bàn bạc, thảo luận, phát huy trí tuệ tập thể để tìm ra chân lý, phương hướng cách mạng đúng đắn, sáng tạo. Chủ tịch Hồ Chí Minh vạch rõ:

“Một người dù khôn ngoan tài giỏi mấy, dù nhiều kinh nghiệm đến đâu, cũng chỉ trông thấy, chỉ xem xét được một hoặc nhiều mặt của một vấn đề, không thể trông thấy và xem xét tất cả mọi mặt của một vấn đề. Vì vậy, cần phải có nhiều người. Nhiều người thì nhiều kinh nghiệm. Người thì thấy rõ mặt này, người thì trông thấy rõ mặt khác của vấn đề đó. Góp kinh nghiệm và sự xem xét của nhiều người, thì vấn đề đó được thấy rõ khắp mọi mặt. Mà có thấy rõ khắp mọi mặt, thì vấn đề ấy mới được giải quyết chu đáo, khỏi sai lầm”2.


Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI ra mắt Đại hội. Ảnh: TTXVN.

Do đó, nhất định cần thực hiện tập thể lãnh đạo trong việc vạch ra đường lối của Đảng, chính sách của Nhà nước, kế hoạch công tác của mỗi địa phương đơn vị. Hơn nữa, sức mạnh của Đảng, trí tuệ của người lãnh đạo bắt nguồn từ chỗ thâu tóm, tổng hợp được trí tuệ của tập thể, của toàn Đảng và của quần chúng nhân dân. Cán bộ lãnh đạo, quản lý nhất là người đứng đầu phải xây dựng được phong cách làm việc dân chủ, tập thể nhằm khai thác được trí tuệ sáng tạo trong các tập thể lãnh đạo và của quảng đại quần chúng, coi đó là “chiếc chìa khoá vàng” tháo gỡ khó khăn, thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ chính trị. Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, phong cách làm việc dân chủ, tập thể yêu cầu cán bộ lãnh đạo, quản lý nên: “ Việc gì cũng hỏi ý kiến nhân dân, cùng nhân dân bàn bạc. Giải thích cho nhân dân hiểu rõ. Được nhân dân đồng ý. Do nhâ dân vui lòng ra sức làm. Như thế hơi phiền một chút, phiền cho những người biếng học hỏi và giải thích. Nhưng việc gì cũng nhất định thành công”3.

Nếu không tập thể lãnh đạo?

Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định rõ: ”Lãnh đạo không tập thể, thì sẽ đi đến cái tệ bao biện, độc đoán, chủ quan. Kết quả là hỏng việc”4.

Người đứng đầu, cán bộ lãnh đạo, quản lý không có phong cách làm việc tập thể, dân chủ, mà độc đoán, chuyên quyền sẽ dẫn đến kìm hãm tính tích cực, sáng tạo của đảng viên và nhân dân. Người phân tích: Mặc dầu họ ra sức kêu gọi phải nâng cao sáng kiến và lòng hăng hái, nhưng đến nay, cán bộ và đảng viên vẫn ít sáng kiến, ít hăng hái. Đó là vì lẽ gì?

“Vì nhiều lẽ. Mà trước hết là vì: Cách lãnh đạo của ta không được dân chủ, cách công tác của ta không được tích cực. Nếu ai nói chúng ta không dân chủ, thì chúng ta khó chịu. Nhưng nếu chúng ta tự xét cho kỹ, thì thật có như thế.”5

Đối với cơ quan lãnh đạo, đối với những người lãnh đạo, các đảng viên và các cán bộ dù có ý kiến cũng không dám nói, dù muốn phê bình cũng sợ, không dám phê bình. Thành thử cấp trên với cấp dưới cách biệt nhau. Quần chúng với Đảng rời xa nhau. Trên thì tưởng cái gì cũng tốt đẹp. Dưới thì có gì không dám nói ra.

Họ không nói, không phải vì họ không có ý kiến, nhưng vì họ nghĩ nói ra cấp trên cũng không nghe, không xét, có khi lại bị "trù" là khác. Họ không dám nói ra thì họ cứ để trong lòng, rồi sinh ra uất ức, chán nản. Rồi sinh ra thói "không nói trước mặt, chỉ nói sau lưng", "trong Đảng im tiếng, ngoài Đảng nhiều mồm", sinh ra thói "thậm thà thậm thụt" và những thói xấu khác.

Làm việc theo cách quan liêu. Cái gì cũng dùng mệnh lệnh. Ép nhân dân làm. Đóng cửa lại mà đặt kế hoạch, viết chương trình rồi đưa ra cột vào cổ nhân dân, bắt nhân dân theo. Có nhiều cán bộ theo cách đó. Họ còn tự đắc rằng: làm như thế, họ vẫn "làm tròn nhiệm vụ", làm được mau, lại không rầy rà.

Họ quên rằng: Đảng ta và Chính phủ ta làm việc là làm cho nhân dân. Việc gì, cũng vì lợi ích của dân mà làm. Làm theo cách quan liêu đó, thì dân oán. Dân oán, dù tạm thời may có chút thành công, nhưng về mặt chính trị, là thất bại. Chính độc đoán chuyên quyền, mất dân chủ là một nguyên nhân dẫn đến sự phân liệt, chia rẽ, mất đoàn kết trong Đảng, vi phạm quyền dân chủ của nhân dân, làm Đảng xa dân, một nguy cơ làm suy yếu, sụp đổ của một đảng cầm quyền.

*Tập thể lãnh đạo là dân chủ.

Người đứng đầu, cán bộ lãnh đạo, quản lý cần có phong cách làm việc tập thể, dân chủ. Chủ tịch Hồ Chí Minh phân tích: Lực lượng của nhân dân nhiều vô cùng. Kinh nghiệm trong nước và các nước đều chứng tỏ: có lực lượng nhân dân việc to tát mấy, khó khăn mấy làm cũng được. Không có, thì việc gì làm cũng không xong. Nhân dân biết giải quyết nhiều vấn đề một cách giản đơn, mau chóng, đầy đủ, mà những người tài giỏi, những đoàn thể to lớn, nghĩ mãi không ra.

Kinh nghiệm các địa phương cho biết: nơi nào công việc kém, là vì cán bộ cách xa nhân dân, không cùng nhân dân bàn bạc, không giải thích. Nơi kha khá, là vì cán bộ biết giải thích, biết cùng nhân dân bàn bạc, nhưng chưa hoàn toàn. Nơi nào khá lắm là vì việc gì to nhỏ, cán bộ cũng biết giải thích, biết cùng nhân dân bàn bạc đến nơi đến chốn, dựa vào nhân dân.

Muốn nhân dân thành thật bày tỏ ý kiến, cán bộ phải thành tâm, phải chịu khó, phải khéo khơi cho họ nói. Do ý kiến và đề nghị lẻ tẻ của nhân dân, ta phải khéo gom góp lại, sắp đặt lại cho có ngăn nắp, thứ tự rồi cùng nhân dân ra sức thi hành. Như vậy, vừa nâng cao trình độ của nhân dân, mà cũng nâng cao kinh nghiệm của mình.

Dân chủ, sáng kiến, hăng hái, ba điều đó rất quan hệ với nhau. Có dân chủ mới làm cho cán bộ và quần chúng đề ra sáng kiến. Những sáng kiến đó được khen ngợi, thì những người đó càng thêm hăng hái, và người khác cũng học theo. Và trong khi tăng thêm sáng kiến và hăng hái làm việc, thì những khuyết điểm lặt vặt, cũng tự sửa chữa được nhiều.

Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu rõ nguyên tắc và phong cách làm việc dân chủ, tập thể là: ”Chúng ta cần phải nâng cao mở rộng dân chủ ra, khuyên gắng cán bộ và đảng viên, bày cho họ suy nghĩ, bày cho họ học hỏi quần chúng, cổ động họ tìm tòi, đề nghị, làm những việc ích lợi cho quần chúng. Khi họ đã có ít nhiều sáng kiến, thì giúp đỡ cho họ phát triển, khen ngợi cho họ thêm hăng hái. Như thế, thì những tính lười, tính "gặp chăng hay chớ" ngày càng bớt, mà sáng kiến và tính hăng hái ngày càng nhiều thêm”6.

*Tránh giáo điều khi thực hiện nguyên tắc tập thể lãnh đạo.

Hồ Chí Minh khẳng định rõ: “Không phải vấn đề gì nhỏ nhặt, vụn vặt, một người vẫn có thể giải quyết được, cũng đưa ra bàn-mới là tập thể lãnh đạo. Nếu làm như vậy, là hiểu tập thể lãnh đạo một cách máy móc. Kết quả là cứ khai hội mà hết ngày giờ”7. Mặc dầu tập thể lãnh đạo là cần thiết, song trong tổ chức thực hiện nghị quyết, trong công tác quản lý mà không có sự phân công nhiệm vụ rõ ràng, người nào việc nấy sẽ dẫn đến tình trạng cha chung không ai khóc, nhiều sãi không ai đóng cửa chùa, nên Hồ Chí Minh khẳng định: “ Tập thể lãnh đạo và cá nhân phụ trách cần phải luôn luôn đi đôi với nhau”8.

Sự cần thiết và nội dung cá nhân phụ trách.

Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: Tập thể lãnh đạo là dân chủ. Cá nhân phụ trách là tập trung. Làm việc mà không theo đúng cách đó, tức là làm trái dân chủ tập trung”9. Trong thực tế, chỉ nhấn mạnh mặt dân chủ, tập thể lãnh đạo, mà không chú ý đến tập trung, cá nhân phụ trách, hoặc ngược lại chỉ nhấn mạnh mặt tập trung, cá nhân phụ trách mà không thực hiện dân chủ, tập thể lãnh đạo đều dẫn đến sai lầm. Sai lầm đó biểu hiện thành hai căn bệnh trái ngược nhau. Một là, quan liêu, độc đoán, chuyên quyền, xa dân. Hai là, dân chủ quá trớn, vô chính phủ, “trên bảo dưới không nghe”; “phép vua thua lệ làng”.

*Nội dung cá nhân phụ trách

- Cá nhân phụ trách là khi công việc của Đảng, của cấp uỷ, của tập thể sau khi đã được bàn bạc thấu đáo đi đến ra nghị quyết hoặc quyết định thì phải được phân công cho từng người phụ trách thi hành. Việc gì một người không làm nổi phải giao cho một tập thể thực hiện thì cũng phải có người đứng đầu tập thể đó chịu trách nhiệm chính.

- Bản lĩnh cá nhân phụ trách theo Chủ tịch Hồ Chí Minh có nghĩa là người đứng đầu, hoặc là cán bộ lãnh đạo, quản lý của đất nước, một địa phương, bộ, ngành hoặc đơn vị, phải là “Những người có thể phụ trách giải quyết các vấn đề, trong những hoàn cảnh khó khăn. Ai sợ phụ trách và không có sáng kiến thì không phải người lãnh đạo. Người lãnh đạo đúng đắn cần phải: Khi thất bại không hoang mang, khi thắng lợi không kiêu ngạo. Khi thi hành các nghị quyết kiên quyết, gan góc không sợ khó khăn. Những người luôn luôn giữ đúng kỷ luật”10.

- Cá nhân phụ trách trước ai ?

Người đứng đầu, cán bộ lãnh đạo, quản lý phải có trách nhiệm cao trước Tổ quốc, nhân dân, trước Đảng, trước cách mạng. Chủ tịch Hồ Chí Minh phân tích rõ: Có người nói rằng mọi việc họ đều phụ trách trước Đảng, trước Chính phủ. Thế là đúng, nhưng chỉ đúng một nửa. Họ phụ trách trước Đảng và Chính phủ, đồng thời họ phải phụ trách trước nhân dân. Mà phụ trách trước nhân dân nhiều hơn phụ trách trước Đảng và Chính phủ, vì Đảng và Chính phủ vì dân mà làm các việc, và cũng phụ trách trước nhân dân. Vì vậy nếu cán bộ không phụ trách trước nhân dân, tức là không phụ trách trước Đảng và Chính phủ, tức là đưa nhân dân đối lập với Đảng và Chính phủ.

- Cá nhân phụ trách trước Đảng, chính phủ và nhân dân cần làm gì?

Nếu trong những chính sách, những chỉ thị, những khẩu hiệu của cấp trên có khiếm khuyết điểm, cán bộ phải có tinh thần phụ trách trước nhân dân mà đề nghị những chỗ nên sửa đổi. Không làm như vậy, tức là cán bộ không phụ trách trước nhân dân, mà cũng không phụ trách trước Đảng và Chính phủ.

Việc gì cũng bàn bạc với nhân dân, giải thích cho nhân dân. Thế là phụ trách trước nhân dân. Chúng ta phải ghi tạc vào đầu cái chân lý này: dân rất tốt. Lúc họ đã hiểu thì việc gì khó khăn mấy họ cũng làm được, hy sinh mấy họ cũng không sợ. Nhưng trước hết cần phải chịu khó tìm đủ cách giải thích cho họ hiểu rằng: những việc đó là vì ích lợi của họ mà phải làm.

Bao nhiêu cách tổ chức và cách làm việc, đều vì lợi ích của quần chúng, vì cần cho quần chúng. Vì vậy, cách tổ chức và cách làm việc nào không hợp với quần chúng thì cá nhân phụ trách phải có gan đề nghị lên cấp trên để bỏ đi hoặc sửa lại. Cách nào hợp với quần chúng, quần chúng cần, thì dù chưa có sẵn, cá nhân phụ trách phải đề nghị lên cấp trên mà đặt ra. Nếu cần làm thì cứ đặt ra, rồi báo cáo sau, miễn là được việc. Đó cũng là tinh thần dám đổi mới và cách mạng.

- Trách nhiệm và quyền hạn của cá nhân phụ trách với tập thể

Theo tư tưởng Hồ Chí Minh cá nhân phụ trách cũng có nghĩa là người đứng đầu, cán bộ lãnh đạo quản lý có một quyền uy nhất định, nhưng đồng thời cũng phải có tinh thần tập thể cao nhất, có trách nhiệm với tập thể cao nhất và phải có chính kiến trong tập thể để giải quyết công việc của tập thể, đơn vị, địa phương và đất nước. Người khẳng định rõ: ” Người nào có chân trong một uỷ ban nào mà làm biếng không đến dự mọi cuộc hội nghị của ban ấy, hoặc không cân nhắc suy nghĩ kỹ lưỡng những vấn đề cần phải bàn bạc và giải quyết hoặc không phát biểu hết ý kiến của mình đối với vấn đề ấy, là trái với nhiệm vụ của mình, và không xứng đáng là một người lãnh đạo”11.

Cá nhân phụ trách trên cơ sở tập thể lãnh đạo nghĩa là phải quyết tâm tổ chức thực hiện đúng việc tập thể đã bàn, đã quyết. Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Người nào phụ trách thi hành, mà không làm đúng kế hoạch do đa số đã quyết định, là làm trái với nhiệm vụ của mình, và cũng không xứng đáng là một người lãnh đạo”12.

*Thế nào là không phụ trách?

Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ ra hai căn bệnh cần tránh là thói không phụ trách quá hữu và thói không phụ trách quá tả. Đó là khi: “Cán bộ ta chỉ biết khư khư giữ nếp cũ. Cái không hợp cũng không dám sửa bỏ, cái cần thiết cũng không dám đặt mới. Đó là vì thói không phụ trách "quá hữu", gặp sao hay vậy.

Song lại có thái độ xa quần chúng, thói không phụ trách "quá tả" là không suy nghĩ chín chắn, so sánh kỹ càng, hôm nay đặt ra cái này, hôm sau sửa lại cái khác, làm cho quần chúng hoang mang”13.

Kết hợp tập thể lãnh đạo với cá nhân phụ trách, dám nghĩ dám làm và quyết đoán.

Tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách là 2 mặt đối lập và thống nhất của một phong cách làm việc biện chứng khoa học của cán bộ lãnh đạo, quản lý. Phong cách làm việc này cũng là biểu hiện của nguyên tắc dân chủ tập trung theo tư tưởng Hồ Chí Minh. Người cho rằng: Dân chủ là nền tảng của tập trung. Tập trung phải được hình thành trên nền tảng dân chủ. Dân chủ dưới sự chỉ đạo của tập trung. Cho nên trong phương pháp làm việc tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách, thì tập thể lãnh đạo là nền tảng cho cá nhân phụ trách. Cá nhân phụ trách dựa trên cơ sở tập thể lãnh đạo. Song Cá nhân phụ trách có thể chỉ đạo tập thể lãnh đạo và phải có tính quyết đoán, dám nghĩ, dám làm khi cần thiết, đặc biệt trong những thời điểm then chốt.

Có ý thức tập thể cao, biết tạo ra bầu không khí làm việc dân chủ tập thể, nhưng lại không có tính quyết đoán, không dám chịu trách nhiệm cá nhân trước tập thể, thì không thể có những quyết định kịp thời đáp ứng yêu cầu của cách mạng, của đất nước, của địa phương, bộ, ngành hoặc là đơn vị. Do đó, phong cách làm việc của người đứng đầu, của cán bộ lãnh đạo, quản lý theo tư tưởng Hồ Chí Minh là phải biết kết hợp lãnh đạo tập thể với cá nhân phụ trách với tinh thần dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm trước Tổ quốc, nhân dân, trước Đảng và Nhà nước để chớp đúng thời cơ, quyết định công việc cần làm ngay khi thực tiễn yêu cầu.

Thực tế hiện nay

Nhận thức chưa đầy đủ về nguyên tắc và phong cách làm việc tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách dẫn đến những bất cập, lạm dụng, cực đoan trong vận dụng nguyên tắc và phong cách làm việc đó. Cho nên vừa có hiện tượng gia trưởng, độc đoán, coi nhẹ trách nhiệm tập thể cấp uỷ, vừa có tình trạng cấp trên không kỷ luật được cấp dưới, không quản lý được cấp dưới; người lãnh đạo, quản lý thiếu tinh thần dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm. Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 khoá XI đã chỉ rõ điều đó và nhấn mạnh: “Nguyên tắc “tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách” trên thực tế ở nhiều nơi rơi vào hình thức do không xác định rõ cơ chế trách nhiệm, mối quan hệ giữa tập thể và cá nhân; khi sai sót, khuyết điểm không ai chịu trách nhiệm. Do vậy, vừa có hiện tượng dựa dẫm vào tập thể, không rõ trách nhiệm cá nhân, vừa không khuyến khích người đứng đầu có nhiệt tình, tâm huyết dám nghĩ, dám làm; tạo kẽ hở cho cách làm việc tắc trách, trì trệ hoặc lạm dụng quyền lực một cách tinh vi để mưu cầu lợi ích cá nhân”14. Các nguyên tắc tập trung dân chủ, tự phê bình và phê bình ở nhiều nơi vừa bị buông lỏng trong thực hiện, vừa chưa được quy định cụ thể để làm cơ sở cho công tác kiểm tra giám sát.

Mỗi cán bộ, đảng viên mà trước hết là cán bộ lãnh đạo, quản lý kiểm điểm, liên hệ theo chức trách, nhiệm vụ được giao, tự phê bình và phê bình thẳng thắn, dân chủ, nghiêm túc, chân thành, gắn với việc thực hiện nhiệm vụ theo cương vị công tác. Tập trung làm rõ trách nhiệm cá nhân, gương mẫu thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ, tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách, tự phê bình và phê bình, nói đi đôi với làm, nêu gương về đạo đức, lối sống.

Sắp tới, Đảng ta sẽ ban hành chính sách, chế độ “quy định rõ thẩm quyền và trách nhiệm của người đứng đầu cấp ủy, tổ chức đảng và cơ quan, đơn vị. Ban hành quy chế để hằng năm Ban Chấp hành Trung ương góp ý kiến, thể hiện sự tín nhiệm đối với tập thể và từng thành viên Bộ Chính trị, Ban Bí thư; ban chấp hành đảng bộ các cấp góp ý kiến, thể hiện sự tín nhiệm đối với tập thể và từng thành viên ban thường vụ cấp ủy cấp mình”15.

Những quy định cụ thể nói trên tiếp tục được xây dựng trên nền tảng tư tưởng Hồ Chí Minh về các nguyên tắc xây dựng Đảng và phong cách làm việc tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách. Trong khi những quy định cụ thể đó chưa được ban hành, việc nghiên cứu vận dụng sáng tạo những lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh về tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách vào phạm vi lãnh đạo, quản lý của mình là việc làm hết sức cần thiết đối với cán bộ, đảng viên, nhất là đối với người đứng đầu, với các cán bộ lãnh đạo quản lý trong hệ thống chính trị dưới sự lãnh đạo của Đảng hiện nay./.





* Trưởng Khoa Tư tưởng Hồ Chí Minh, Học viện Chính trị-Hành chính Khu vực I.





1 . 2. 3. 4. 5. 6. 7. 8. 9. 10. 11. 12 . 13. Hồ Chí minh: Toàn tập. NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, t5, tr 619, 294, 505,243, 245, 505, 275, 505, 506, 246.

14 . 15. Văn kiện Hội nghị lần thứ tư Ban chấp hành Trung ương khoá XI, NXB Chính trị quốc gia-Sự thật, Hà Nội, 2012, tr 22-23, 33-34.



http://tutuonghochiminh.vn/examine/tap-the-lanh-dao-ca-nhan-phu-trach-theo-tu-tuong-ho-chi-minh.d-785.aspx

TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ TỰ PHÊ BÌNH VÀ PHÊ BÌNH


08-08-2012

PGS,TS Nguyễn Thế Thắng*

Là Người sáng lập và lãnh đạo Đảng ta, Chủ tịch Hồ Chí Minh hết sức quan tâm đến công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng. Để Đảng ta thực sự trong sạch, vững mạnh, Người khẳng định rõ Đảng ta phải luôn tuân thủ, giữ vững các nguyên tắc tổ chức, sinh hoạt của một Đảng kiểu mới của giai cấp công nhân. Trong đó, Người đặc biệt quan tâm đến tự phê bình và phê bình. Trong quá trình xây dựng, rèn luyện Đảng ta, Người đã nêu lên một hệ thống quan điểm toàn diện về tự phê bình và phê bình ở tầm là một quy luật, một nguyên tắc, một giải pháp quan trọng để xây dựng Đảng, chỉnh đốn Đảng.

  1. Nêu rõ khái niệm, mục đích, nội dung, thái độ tự phê bình và phê bình

Trước hết, Chủ tịch Hồ Chí Minh làm rõ khái niệm tự phê bình và phê bình. Tự phê bình là nêu ưu điểm và vạch khuyết điểm của mình. Phê bình là nêu ưu điểm và vạch khuyết điểm của đồng chí mình. Tự phê bình và phê bình phải đi đôi với nhau. Để làm cho mọi người học lẫn ưu điểm của nhau và giúp nhau chữa những khuyết điểm.

Mục đích tự phê bình và phê bình cốt để giúp nhau sửa chữa, giúp nhau tiến bộ. Cốt để sửa đổi cách làm việc cho tốt hơn. Cốt đoàn kết và thống nhất nội bộ, làm cho công việc tiến hơn; thắt chặt mối quan hệ giữa Đảng, Chính phủ và nhân dân.v.v.

Về Nội dung tự phê bình và phê bình, Hồ Chí Minh chỉ rõ: Trên cơ sở chức trách, bổn phận, mỗi cán bộ, đảng viên kiểm điểm, tự phê bình và phê bình việc thực hiện nhiệm vụ được giao. Công việc của tập thể, hoặc mỗi người luôn bề bộn, “trăm công nghìn việc”, song, cần nhận rõ: Trong mỗi thời kỳ ắt có một, hai công tác chính. Trong công tác chính ấy, lại có khâu chính. Đó là trọng tâm của công tác chính ấy. Lúc kiểm thảo cán bộ, đảng viên phải nhằm vào rút ra ưu điểm và khuyết điểm trong thực hiện trọng tâm công tác chính ấy. Người lưu ý:

“Trong lúc thảo luận, mọi người được hoàn toàn tự do phát biểu ý kiến, dù đúng hoặc không đúng cũng vậy. Song không được nói gàn, nói vòng quanh”1

Về Thái độ tự phê bình và phê bình, trước hết cần tránh các thái độ cực đoan, sai trái.

- Thứ nhất: Sợ tự phê bình và phê bình. Che dấu khuyết điểm. Sợ rằng phê bình khuyết điểm của mình, của đồng chí mình, của Đảng và Chính phủ, thì: Kẻ địch sẽ lợi dụng để phản tuyên truyền; Giảm bớt uy tín của Đảng và chính quyền ; Làm mất thể diện của cán bộ đã phạm khuyết điểm.

Chủ tịch Hồ Chí Minh ví: « Khuyết điểm cũng như chứng bệnh. Phê bình cũng như uống thuốc. Sợ phê bình, cũng như có bệnh mà giấu bệnh. Không dám uống thuốc. Để đến nỗi bệnh ngày càng nặng, không chết "cũng la lết quả dưa"2.

Phê bình là trị bệnh cứu người. Một Đảng cũng như một con người. « Một Đảng mà giấu giếm khuyết điểm của mình là một Đảng hỏng. Một Đảng có gan thừa nhận khuyết điểm của mình, vạch rõ những cái đó, vì đâu mà có khuyết điểm đó, xét rõ hoàn cảnh sinh ra khuyết điểm đó, rồi tìm kiếm mọi cách để sửa chữa khuyết điểm đó. Như thế là một Đảng tiến bộ, mạnh dạn, chắc chắn, chân chính »3. Cho nên, Toàn Đảng cũng như mỗi cán bộ, đảng viên phải có gan và dũng khí cách mạng, vì dân vì nước mới có thể tự phê bình và phê bình nghiêm túc.

- Thứ hai là có hai thái độ cực đoan về nhìn nhận khuyết điểm của Đảng cũng như của mỗi tập thể, mỗi con người. Có người thì cho rằng: trong Đảng việc gì cũng tốt, không có khuyết điểm gì đáng lo. Có người lại cho rằng: trong Đảng cái gì cũng kém, đầy những khuyết điểm, vì vậy mà họ bi quan, thất vọng. Hai cách nhận xét đó đều không đúng.

- Thứ ba là, mọi việc có thế nào cũng mặc kệ, sao xong chuyện thì thôi. Không phê bình, không tự phê bình. Đó là thái độ của những đảng viên và cán bộ ươn hèn yếu ớt. Người cho rằng thái độ ai mặc kệ ai, thái độ đó cố nhiên là không đúng. Tuy vậy, trong Đảng, còn có nhiều người giữ thái độ đó, nhất là khi cấp dưới đối với cấp trên. Thái độ đó thường sinh ra thói "không nói trước mặt, hục hặc sau lưng". Nó gây nên sự uất ức và không đoàn kết trong Đảng. Nó để cho bọn vu vơ có thể chui vào hoạt động trong Đảng. Nó để cho khuyết điểm ngày càng chồng chất lại và phát triển ra.

- Thứ tư là, máy móc, quá tả. Đối với những người có khuyết điểm và sai lầm đó, như đối với hổ mang, thuồng luồng. Họ đòi phải đuổi bọn kia ra khỏi Đảng ngay. Nếu Đảng không làm như thế thì họ cho rằng: Thôi, hỏng hết rồi! Do đó, họ đâm ra chán nản, thất vọng. Hoặc họ không làm gì nữa hết. Thậm chí họ bỏ Đảng. Đó là thái độ những người máy móc quá. Đó cũng là bệnh "chủ quan". Nếu theo thái độ đó thì Đảng chỉ còn một nhóm cỏn con, vì số đông sẽ bị khai trừ hết. Mà chính những người có thái độ đó cũng bị khai trừ, vì họ đã phạm cái khuyết điểm hẹp hòi.

Thái độ của bọn phản động. Bọn phản động thì lợi dụng những khuyết điểm đó và tô vẽ thêm để phá hoại Đảng ta.

Còn những người lợi dụng những sai lầm và khuyết điểm của Đảng, của tổ chức, cơ quan, đơn vị để đạt mục đích tự tư tự lợi của họ. Đó là thái độ của đảng viên và cán bộ đầu cơ.

Thứ năm là thái độ đúng đắn. Cần Phân tích rõ ràng cái gì đúng, cái gì sai. Không bị ảnh hưởng của những chủ trương sai lầm, những phần tử không tốt, ra sức học tập và đề cao gương người tốt, việc tốt. Không để mặc kệ, mà ra sức tranh đấu sửa chữa những khuyết điểm, không để nó phát triển ra, không để nó có hại cho Đảng. Không làm cách máy móc, mà khéo dùng cách phê bình và tự phê bình để giúp đồng chí khác sửa đổi những sai lầm và khuyết điểm, giúp họ tiến bộ. Đoàn kết Đảng bằng sự tranh đấu nội bộ. Nâng cao kỷ luật và uy tín của Đảng.


Chủ tịch Hồ Chí Minh tại đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III Đảng Lao động Việt Nam, tháng 9/1960

2- Nêu ra một hệ thống phương pháp tự phê bình và phê bình.

Với kinh nghiệm cách mạng và sự từng trải trong sinh hoạt Đảng và sự giao tiếp, Người chỉ ra những phương pháp tự phê bình và phê bình đúng đắn, khéo léo đến độ minh triết. Mỗi cán bộ, đảng viên cần biết thực hiện những nguyên tắc cơ bản sau trong trong tự phê bình và phê bình.

Trước hết là nghiên cứu tài liệu lý luận và về đường lối, chính sách của của Đảng, Nhà nước. Lấy đó làm căn cứ để tự phê bình và phê bình. Tiếp theo là Kiểm thảo công việc của bản thân và tập thể về mặt tư tưởng và lề lối làm việc. Kiểm thảo phải khởi đầu từ cấp trên, dần dần đến cấp dưới. Cán bộ cấp trên phải làm gương mẫu thật thà tự phê bình, phải hoan nghênh và khuyến khích mọi người phê bình mình, tức là phải thực hiện dân chủ rộng rãi. Từ trên xuống, rồi từ dưới lên.

Cán bộ cấp trên phải trực tiếp lãnh đạo từ lúc chuẩn bị cho đến lúc kết thúc cuộc kiểm thảo. Trong kiểm thảo phải nêu rõ ưu điểm và khuyết điểm, làm cho việc phải việc trái rõ ràng, làm cho mọi người hiểu rõ và vui lòng thừa nhận.

Ưu điểm thì phải khen, để mọi người bắt chước và phát triển. Khuyết điểm thì phải tuỳ nặng nhẹ mà xử trí cho đúng mực, để mọi người biết mà tránh. Mục đích của kiểm thảo là giáo dục, cải tạo, nhưng không phải tuyệt đối không hề dùng kỷ luật. Những vấn đề đã đặt ra, cần tìm cách giải quyết cho đúng. Trong kiểm thảo, phải làm cho mọi người tự động, tự giác thật thà nêu khuyết điểm của mình, thành thật phê bình anh em. Kiểm thảo thì nhằm vào tư tưởng, lề lối làm việc, kết quả của công việc, chứ không nhằm vào cá nhân.

Cần tránh: Đối với người khác thì phê bình đúng đắn, nhưng tự phê bình thì quá "ôn hoà". Đối với người khác thì rất "mác xít", nhưng đối với bản thân mình thì mắc vào chủ nghĩa tự do.

Về tính tất yếu và sự cần thiết của tự phê bình, Người vạch rõ rằng: « Dao có mài, mới sắc. Vàng có thui, mới trong. Nước có lọc, mới sạch.Người có tự phê bình, mới tiến bộ. Đảng cũng thế”4.

Tự phê bình cần thực hiện thường xuyên như hàng ngày ăn cơm và rửa mặt. Ngày nào cũng phải ăn cho khỏi đói, rửa mặt cho khỏi bẩn, thì ngày nào cũng phải tự phê bình cho khỏi sai lầm. Thái độ tự phê bình cần mạnh dạn, thẳng thắn, thật thà.

Tự phê bình là thật thà nhận, công khai nhận trước mặt mọi người những khuyết điểm của mình để tìm cách sửa chữa. Điều đó nói thì dễ, nhưng làm thì khó. Khó là vì người ta hay có lòng tự ái. Thừa nhận cái sai, cái dốt, cái kém của mình, thì sợ mất thể diện, mất uy tín, mất địa vị. Điều đó thật là chí lý.

Người còn hóm hỉnh nêu thí dụ: Có nơi cán bộ tự phê bình qua loa, hình thức. Thậm chí khi đọc thư của Hồ Chủ tịch trước nhân dân, họ chỉ đọc những chỗ phê bình dân, còn những chỗ phê bình cán bộ thì họ không đọc. Thế là những cán bộ ấy đã không thật thà tự phê bình, đã dối trên, lừa dưới.

Tự phê bình là một cuộc đấu tranh. « Tự mình, không đánh thắng được khuyết điểm của mình, mà muốn đánh thắng kẻ địch, tự mình không cải tạo được mình, mà muốn cải tạo xã hội, thì thật là vô lý »5. Vì vậy người cách mạng nhất định phải thật thà tự phê bình và kiên quyết chữa khuyết điểm, đánh thắng kẻ địch trong lòng mình là chủ nghĩa cá nhân.

Người vạch ra những nguyên tắc đúng đắn trong phê bình:

- Thứ nhất là, Kiên quyết chống thói nể nang và che giấu, chống thói "trước mặt thì nể, kể lể sau lưng".

- Thứ hai là, phê bình mình cũng như phê bình người phải ráo riết, triệt để, thật thà, không nể nang, không thêm bớt.

- Thứ ba là, Phải vạch rõ cả ưu điểm và khuyết điểm. Đồng thời, chớ dùng những lời mỉa mai, chua cay, đâm thọc.

- Thứ tư là Phê bình việc làm, chứ không phải phê bình người.

- Thứ năm là Ta phải biết cách phê bình sáng suốt, khôn khéo. Phê bình như chiếu tấm gương cho mọi người soi thấu những khuyết điểm của mình, để tự mình sửa chữa. Một người có vết nhọ trên mặt, được người ta đem gương cho soi, mình tự thấy vết nhọ. Lúc đó không cần ai khuyên bảo, cũng tự vội vàng đi rửa mặt. Những người bị phê bình thì phải vui lòng nhận xét để sửa đổi, không nên vì bị phê bình mà nản chí, hoặc oán ghét. Cách phê bình khôn khéo như vậy nhất định sẽ có kết quả tốt đẹp.

3- Vai trò người đứng đầu, cán bộ lãnh đạo, quản lý trong tổ chức tự phê bình và phê bình

Họ phải biết tổ chức tốt việc tự phê bình và phê bình trong phạm vi mình phụ trách. Phải tổ chức một uỷ ban học tập, do cán bộ cao cấp lãnh đạo, do các cấp cử đại biểu tham gia. Số uỷ viên nhiều hay ít, tuỳ hoàn cảnh mà định. Uỷ ban này định ra kế hoạch; nghiên cứu, thảo luận, kiểm tra và thực hành. Kiểm tra: Uỷ ban học tập phải có một ban kiểm tra để xem xét việc học tập và sự tiến bộ của mọi người, giúp đỡ người tiến bộ ít, khen ngợi người tiến bộ nhiều. Báo cáo: Mỗi tháng phải báo cáo về cấp trên, Trung ương một lần. Lãnh đạo, cấp trên phải gương mẫu tự phê bình và phê bình.

Chủ tịch Hồ Chí Minh vạch rõ: “Cấp trên cũng nên thỉnh thoảng trưng cầu ý kiến phê bình của cấp dưới. Có như thế thì cũng khác nào như một người có vết nhọ trên mặt, được người ta đem gương cho soi, mình tự thấy vết nhọ. Lúc đó không cần ai khuyên bảo, cũng tự vội vàng đi rửa mặt”6.

Cấp trên phê bình, chưa đủ. Đồng chí, đồng sự phê bình, chưa đủ. Phải hoan nghênh quần chúng phê bình nữa, thì sự phê bình mới hoàn toàn.

Người đứng đầu, Cán bộ lãnh đạo, quản lý cần biến kết quả tự phê bình và phê bình thành hành động cách mạng, hoàn thành chức trách, nhiệm vụ được giao. Khi kết thúc kiểm thảo, ra sức làm cho mọi người tăng thêm lòng tự tin. Tin chắc mình phát triển được ưu điểm, sửa đổi được khuyết điểm, khiến mọi người khoan khoái, vui vẻ, hăng hái, để tiếp tục công tác và tiến bộ mãi. Rồi phải đặt chương trình học tập và công tác sắp tới, để mọi người thi đua làm tròn nhiệm vụ. Kết quả cần đạt được của việc tự phê bình và phê bình là: Đoàn kết chặt chẽ cán bộ trong Đảng, ngoài Đảng và toàn dân. Nâng cao tinh thần trách nhiệm, tinh thần thi hành nghiêm chỉnh và triệt để chính sách của Đảng và Chính phủ. Theo đường lối quần chúng, vượt mọi khó khăn, đưa cách mạng đến thắng lợi hoàn toàn.

4- Chủ tịch Hồ Chí Minh là tấm gương trong sáng về phê bình và tự phê bình.

Tháng 1 năm 1946, Chính phủ liên hiệp lâm thời mới được thành lập, hoàn cảnh cách mạng Việt Nam lúc đó bắt gặp vô vàn khó khăn – Những khó khăn đó đã được các nhà sử học ví như « ngàn cân treo sợi tóc ». Trước tình hình đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh - Người đang cầm lái, chèo chống một cách vững vàng để đưa con thuyền Tổ quốc vượt qua những cơn sóng gió, an toàn đi đến bến bờ hạnh phúc, đã dũng cảm tự phê bình công khai trước nhân dân, để cán bộ, đảng viên và nhân dân đều phải hiểu thấu trách nhiệm, bổn phận của mình, đoàn kết vượt qua hiểm hoạ, đưa sự nghiệp kháng chiến, kiến quốc đến thành công.

Sau khi nêu rõ những thành công và khuyết điểm của Chính phủ và tình hình kháng chiến, kiến quốc trên cả hai miền Nam Bắc lúc đó, Người khẳng định :

« Trước hoàn cảnh khó khăn đó, đồng bào đã cố gắng, người giúp sức, kẻ giúp tiền. Còn tôi thì lo lắng đêm ngày để làm tròn nhiệm vụ của mình, sao cho khỏi phụ lòng đồng bào toàn quốc. Chỉ vì tôi tài hèn sức mọn, cho nên chưa làm đầy đủ những sự mong muốn của đồng bào »7.

« Có thể nói rằng: những khuyết điểm đó là vì thời gian còn ngắn ngủi, vì nước ta còn mới, hoặc vì lẽ này, lẽ khác.

Nhưng không, tôi phải nói thật: những sự thành công là nhờ đồng bào cố gắng. Những khuyết điểm kể trên là lỗi tại tôi.

Người đời không phải thánh thần, không ai tránh khỏi khuyết điểm. Chúng ta không sợ có khuyết điểm, nhưng chỉ sợ không biết kiên quyết sửa nó đi. Từ nay, tôi mong đồng bào ra sức giúp tôi sửa chữa những khuyết điểm đó bằng nhiều cách, trước hết là bằng cách thi hành cho đúng và triệt để những mệnh lệnh của Chính phủ.

Vận mệnh nước ta ở trong tay ta. Chúng ta đồng tâm nhất trí, trên dưới một lòng, thì chúng ta nhất định thắng lợi »8.

Trong quá trình lãnh đạo Đảng, Nhà nước ta, Người thường xuyên khuyến khích cấp dưới và quần chúng nhân dân phê bình mình :

"Tôi làm điều xấu, các đồng chí trông thấy, phải phê bình cho tôi sửa chữa ngay. Nếu tôi có vết nhọ trên trán, các đồng chí trông thấy, lại lấy cớ "nể Cụ" không nói là tôi mang nhọ mãi. Nhọ ở trên trán thì không quan trọng, nhưng nếu có vết nhọ ở trong óc, ở tinh thần, mà không nói cho người ta sửa, tức là hại người ta"9 .

Người phân tích rằng: “Người đời ai cũng có khuyết điểm. Có làm việc thì có sai lầm.

Chúng ta không sợ có sai lầm và khuyết điểm, chỉ sợ không chịu cố gắng sửa chữa sai lầm và khuyết điểm. Và càng sợ những người lãnh đạo không biết tìm cách đúng để giúp cán bộ sửa chữa sai lầm và khuyết điểm”10.

Chính bản lĩnh chính trị, tính gương mẫu, tiên phong trong tự phê bình và phê bình của Chủ tịch Hồ Chí Minh, người đứng đầu Đảng, đứng đầu Nhà nước đã là một nhân tố có tính quyết định trong việc sử dụng vũ khí tự phê bình như là một quy luật, một nguyên tắc, một giải pháp quan trọng của quá trình xây dựng, chỉnh đốn Đảng. Và, thực tế lịch suer Đảng ta chứng tỏ rằng: Chỉ khi có sự chỉ đạo, thực hiện tích cực, đúng đắn, gương mẫu của Người đứng đầu, của tất cả các cấp uỷ Đảng; sự giác ngộ về nhận thức của tất cả cán bộ, đảng viên, nhân dân và dân chủ trong Đảng được phát huy; đồng thời Đảng biết dựa vào dân để xây dựng, chỉnh đốn Đảng, tự phê bình và phê bình mới thật sự là một quy luật phát triển, một nguyên tắc, giải pháp xây dựng Đảng có hiệu quả trong thực tế.

5- Quán triệt tư tưởng Hồ Chí Minh về tự phê bình và phê bình vào công tác xây dựng chỉnh đốn Đảng hiện nay.

Vừa qua, Hội nghị BCHTW lần thứ tư, Khoá XI đã bàn và ra nghị quyết về những vấn đề cấp bách trong xây dựng Đảng. Để thực hiện được những nhiệm vụ cấp bách đó, Đảng ta đã nêu ra một hệ thống giải pháp cần phải thực hiện đồng bộ, trong đó có một giải pháp cơ bản là đẩy mạnh tự phê bình và phê bình. Trong Lời phát biểu bế mạc Hội nghị lần thứ tư BCHTWW khoá XI, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng vạch rõ ;

Tự phê bình và phê bình là « Khâu mấu chốt nhất nhưng thực hiện cũng có nhiều khó khăn nhất. Bởi vì, nó đòi hỏi mỗi người phải tự phân tích, mổ xẻ những ưu, khuyết điểm của chính bản thân mình; phải nhận xét, đánh giá về người khác. Nếu không thật tự giác, chân thành, công tâm thì rất dễ chủ quan, thường chỉ thấy ưu điểm, mặt mạnh của mình nhiều hơn người khác; trong khi chỉ thấy khuyết điểm, mặt yếu của người khác nhiều hơn mình. Nếu không hết lòng vì sự nghiệp chung, không có dũng khí, không thật sự cầu thị thì không dám nói hết khuyết điểm của mình và không dám phê bình người khác, nhất là phê bình cấp trên»11.

Đảng ta đã và đang chú trọng vận dụng sáng tạo và phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh về tự phê bình vào công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng hiện nay. Tự phê bình và phê bình là công việc phải tiến hành thường xuyên, liên tục như soi gương, rửa mặt hàng ngày, chứ không thể đánh trống bỏ dùi, chỉ làm một lần cho xong. Cấp trên phải làm gương, đi đầu trong tự phê bình và phê bình. Trước hết là cấp Trung ương và đứng đầu các cấp các ngành, các địa phương, các đơn vị, tự phê bình, tự điều chỉnh. Trong quá trình đó, cần phát huy dân chủ trong Đảng và để quần chúng đóng góp ý kiến cho cán bộ, đảng viên. Dựa vào góp ý kiến xây dựng của dân và các Đoàn thể để nhìn nhận các mặt ưu điểm, khuyết điểm của cán bộ, đảng viên trước khi tiến hành tự phê bình và phê bình.

Nội dung tự phê bình và phê bình xoay quanh 3 vấn đề cấp bách trong công xây dựng Đảng ta hiện nay.

Một là: Ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, trước hết là cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp. Hai là : Xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp, nhất là cấp Trung ương, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá và hội nhập quốc tế. Ba là : Xác định rõ thẩm quyền, trách nhiệm người đứng đầu cấp uỷ, chính quyền, trong mối quan hệ với tập thể cấp uỷ, cơ quan, đơn vị; tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng. Kết hợp với tự phê bình và phê bình về 19 điều Đảng viên không được làm và những vấn đề bức xúc nổi cộm ở đơn vị mình.

Tinh thần tự phê bình và phê bình phải ráo riết triệt để, thật thà, không nể nang, không né tránh, không thêm bớt. Phải biểu dương thành tích, ghi nhận ưu điểm đi đôi với phê bình khuyết điểm. Trong quá trình đó phải nhớ lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh : Chớ dùng những lời mỉa mai, chua cay, thâm độc. Phê bình công việc chứ không phê bình người. Thống nhất cao về tư tưởng, quyết tâm chính trị phải lớn ; thường xuyên, liên tục, làm đi làm lại nhiều lần, tự phê bình và phê bình mới thật sự là vũ khí sắc bén để sửa chữa khuyết điểm, phát triển ưu điểm. Hàng chục đã năm trôi qua cho đến nay, những tư tưởng Hồ Chí Minh về tự phê bình và phê bình vẫn nóng hổi tính thời sự. Làm tốt những căn dặn của Người thì Đảng ta sẽ xây dựng, chỉnh đốn Đảng thành công, làm cho Đảng thật sự trong sạch, vững mạnh, là đạo đức, là văn minh./.













* Trưởng Khoa tư tưởng Hồ Chí Minh, Học viện Chính trị-Hành chính Khu vực I.

1 Hồ Chí Minh: Toàn tập, tập 5, NXB Chính trị quốc gia, (xuất bản lân thứ ba), Hà Nội, 2011, tr 272.

2 Hồ Chí Minh: Toàn tập, tập 5, S.đ.d, tr 301.

3 Hồ Chí Minh: Toàn tập, tập 5, S.đ.d, tr. 301.

4 Hồ Chí Minh: Toàn tập, tập 7, NXB Chính trị quốc gia, (xuất bản lần thứ ba, Hà Nội, 2011, tr 80.

5 Hồ Chí Minh: Toàn tập, tập 7, S.đ.d, tr 82.

6 Hồ Chí Minh: Toàn tập, tập 5, S.đ.d, tr. 284.

7 Hồ Chí Minh: Toàn tập, Tập 4, NXB Chính trị quốc gia, (xuất bản lần thứ ba), Hà Nội, 2011, tr 191.

8 Hồ Chí Minh: Toàn tập, Tập 4, S.đ.d, tr 192-193.

9 Hồ Chí Minh: Toàn tập, tập 5, S.đ.d, tr 260.

10 Hồ Chí Minh: Toàn tập, tập 5, S.đ.d, tr. 323.

11 Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Hội nghị lần thứ tư Ban chấp hành Trung ương khoá XI, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2012, tr98-99.


http://tutuonghochiminh.vn/cmvn/tu-tuong-ho-chi-minh-ve-tu-phe-binh-va-phe-binh.d-762.aspx