Chủ Nhật, 7 tháng 10, 2012

CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH QUAN TÂM TỚI THƯƠNG BINH, GIA ĐÌNH LIỆT SĨ VÀ NGƯỜI CÓ CÔNG VỚI NƯỚC


21-07-2012

PGS,TS Nguyễn Thế Thắng

Lãnh đạo nhân dân ta làm Cách mạng Tháng Tám và hai cuộc kháng chiến chống lại hai tên đế quốc to của thế kỷ XX, trong chiến tranh hay hoà bình, khi nào Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng khẳng định rõ công lao to lớn của các thương binh, bệnh binh, liệt sĩ và gia đình họ. Người hết lòng lo lắng việc giúp đỡ họ với tư cách là những người có công với Tổ quốc, với nhân dân Việt Nam. "Ăn quả nhớ kẻ trồng cây", trong Đổi mới hôm nay, không thể nào không tiếp tục học và làm theo tư tưởng, tấm gương của Người trong chăm lo tới các thương binh, bệnh binh, gia đình liệt sĩ liệt sĩ và người có công với nước.

Chưa có ai định nghĩa Thương binh, Liệt sĩ bằng những nội dung nặnh tình ân nghĩa như Hồ Chí Minh:

“Khi nạn ngoại xâm ào ạt đến, nó như một trận lụt to. Nó đe doạ tràn ngập cả non sông Tổ quốc. Nó đe doạ cuốn trôi cả tính mệnh, tài sản, chìm đắm cả bố, mẹ, vợ, con, dân ta. Trước cơn nguy hiểm ấy, số đông thanh niên yêu quý của nước ta dũng cảm xông ra mặt trận. Họ quyết đem xương máu của họ đắp thành một bức tường đồng, một con đê vững, để ngăn cản nạn ngoại xâm tràn ngập Tổ quốc, làm hại đồng bào. Họ quyết hy sinh tính mệnh họ, để giữ gìn tính mệnh của đồng bào. Họ hy sinh gia đình và tài sản họ, để bảo vệ gia đình và tài sản đồng bào. Họ quyết liều chết chống địch, để cho Tổ quốc và đồng bào sống. Họ là những chiến sĩ anh dũng của ta. Trong đó, có người đã bỏ lại một phần thân thể ở trước mặt trận. Có người đã bỏ mình ở chiến trường. Đó là thương binh, đó là tử sĩ"1.

Ghi nhận hy sinh vô giá, công lao to lớn của thương binh liệt sĩ với đất nước, nhân dân, Người nêu rõ máu đào của các thương binh, liệt sĩ đã làm cho lá cờ cách mạng thêm đỏ chói. Sự hy sinh anh dũng của các liệt sĩ đã chuẩn bị cho đất nước ta nở hoa Độc lập, kết trái Tự do. Đồng thời, hết sức cảm thông với những thiệt thòi của thương binh, liệt sĩ và gia đình họ trong cuộc sống hoà bình, đã kêu gọi đồng bào chia sẻ với những tâm tư, mất mát lớn của thương binh, liệt sĩ. Người nói: Cách mấy ngày trước, họ là những thanh niên lành mạnh, vui vẻ, oanh liệt. Trải qua những ngày ăn gió nằm sương, những trận mưa bom, bão đạn, họ bị tay què, chân cụt, họ hoá ra thương binh. Khi cách mạng, kháng chiến thành công, họ không tránh khỏi phân vân. "Cách mấy ngày trước, bố mẹ họ nhận được tin tức, đang mong cho đến ngày kháng chiến thắng lợi, độc lập thành công, họ sẽ trở lại quê hương, một nhà đoàn tụ.

Ngày nay, bố mẹ họ đã mất một người con yêu quý. Vợ trẻ thơ trở nên bà hoá. Con dại trở nên bồ côi. Trên bàn thờ gia đình thêm một linh bài tử sĩ. Họ đã hy sinh cho ai?"1


Bác Hồ đặt vòng hoa tưởng niệm các anh hùng liệt sĩ

Cho nên nhân dân ta cần thấm thía rằng trong công cuộc kháng chiến cứu nước, nhân dân hy sinh là hy sinh một phần của cải và thời giờ. Của cải hết, có thể lại làm ra. Thời giờ qua, thời giờ lại đến. Nhưng bộ đội hy sinh là hy sinh xương máu, có khi hy sinh cả tính mệnh. Cụt chân gãy tay, chân tay không thể mọc lại. Người chết không thể sống lại. "Đó là một sự hy sinh tuyệt đối". Đồng bào biết rằng: Các chiến sĩ trong bộ đội ai cũng có cha mẹ anh em, ai cũng có gia đình thân thích. Nhưng họ đã hy sinh tiểu gia đình của họ, họ đã không ngần ngại rời cha mẹ, bỏ quê hương, ra xông pha bom đạn, để phụng sự đại gia đình dân tộc gồm cả gia đình của mỗi đồng bào. Do đó, nhân dân ta cần phải biết ơn, yêu mến và giúp đỡ anh chị em thương binh, gia đình liệt sĩ.

Không chỉ chia sẻ, cảm thông với tất cả các thương binh, gia đình liệt sĩ của cả dân tộc, mà có dịp, Người gửi thư chia buồn, hoặc gửi quà tặng tới riêng từng gia đình liệt sĩ, hoặc thương binh. Nghe tin con giai bác sĩ Vũ Đình Tụng đã oanh liệt hy sinh cho Tổ quốc. Người đã viết thư chia buồn, trân trọng thưa với Bác sĩ Vũ Đình Tụng là Ngài.

Bác Hồ đặt vòng hoa tưởng niệm các anh hùng liệt sĩ

" Ngài biết rằng tôi không có gia đình, cũng không có con cái. Nước Việt Nam là gia đình của tôi. Tất cả thanh niên Việt Nam là con cháu tôi. Mất một thanh niên thì hình như tôi đứt một đoạn ruột.....Ngài đã đem món của quý báu nhất là con của mình, sẵn sàng hiến cho Tổ quốc....Tôi thay mặt Chính phủ cảm ơn ngài"2. Đồng thời, Người khẳng định đồng bào và Tổ quốc sẽ không bao giờ quên công ơn của những người đã hy sinh vì Tổ quốc như con giai của bác sĩ Vũ Đình Tụng.

Ngày 16-2-1947, trên cương vị Chủ tịch nước, Người ký Sắc lệnh số 20/SL ban hành chế độ hưu bổng thương tật và tiền tử tuất. Đây là văn bản pháp quy đầu tiên đặt nền tảng cho chính sách thương binh, liệt sĩ của nước ta.

Tháng 6 năm 1947, Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ thị chọn một ngày trong năm làm " Ngày thương binh" để nhân dân ta có dịp tỏ lòng biết ơn, yêu mến, giúp đỡ thương binh, gia đình liệt sĩ và những người có công với nước. Thực hiện chỉ thị của Người, một Hội nghị trù bị gồm đại biểu các cơ quan, các ngành ở Trung ương, Khối và Tỉnh đã họp ở Phú Minh (Đại Từ, Thái Nguyên) bàn bạc, nhất trí đề nghị lấy ngày 27-7-1947 làm "Ngày thương binh liệt sĩ" đầu tiên trong cả nước. Từ đó, ngày 27-7 hàng năm thành "Ngày thương binh liệt sĩ". Vào các dịp 27-7 hàng năm, Chủ tịch Hồ Chí Minh thường ra Lời kêu gọi toàn dân, hoặc gửi thư tới Bộ trưởng Bộ thương binh, cựu binh, hoặc các bệnh viện, các thương binh, gia đình liệt sĩ. Người yêu cầu Đảng, Chính quyền, Đoàn thể các cấp thực hiện nghiêm túc chính sách thương binh liệt sĩ. Đảm bảo cho họ được "Yên ổn về vật chất, vui vẻ về tinh thần". Nhắc nhở nhân dân tỏ lòng hiếu nghĩa, bác ái với thương binh và gia đình liệt sĩ, người có công với nước. Động viên anh chị em thương binh phấn đấu để trở thành những người "tàn nhưng không phế", hăng hái, lạc quan đóng góp sức mình vào công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc ta.

Người nêu ra phương châm chỉ đạo trong thực hiện công tác thương binh liệt sĩ rất phù hợp với đạo lý truyền thống của dân tộc và hoàn cảnh đất nước: "Đồng bào sẵn sàng giúp đỡ, Chính phủ ra sức nâng đỡ, anh em có quyết tâm thì anh em nhất định dần dần tự túc được". Nay, quán triệt tư tưởng của Người cần phát huy sức mạnh của thế "Kiềng 3 chân". Nhà nước, nhân dân và thương binh, gia đình liệt sĩ cùng ra sức thực hiện tốt chính sách thương binh, liệt sĩ. Trong đó, chính sách của Nhà nước đóng vai trò chủ đạo, đòn bẩy. Các phong trào đền ơn đáp nghĩa của nhân dân giữ vai trò quan trọng. Còn bản thân thương binh, bệnh binh, gia đình liệt sĩ có vị thế quyết định trong việc phấn đấu nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của mình.

Sinh thời, Hồ Chí Minh có nhiều sáng kiến phát động các phong trào nhân dân giúp đỡ thương binh, gia đình liệt sĩ. Tháng 2 năm 1948, Người gửi thư cho các cháu nhi đồng phát động phong trào công tác Trần Quốc Toản nhằm giúp đỡ các gia đình bộ đội, gia đình thương binh, liệt sĩ. Tháng 7 năm 1951, phát động phong trào "Đón thương binh về làng", để Đảng, Chính quyền, Đoàn thể và nhân dân các làng, xã sản xuất giúp đỡ thương binh, giúp thương binh làm những công việc nhẹ, phù hợp để có thể tự sinh sống, hoà nhập với cộng đồng, v,v,.Thường xuyên viết thư, báo kịp thời biểu dương, cổ vũ những cá nhân, tập thể có thành tích trong giúp đỡ các thương binh, gia đình liệt sĩ.

Bản thân Chủ tịch gương mẫu thực hiện việc giúp đỡ thương binh, liệt sĩ. Như ngày 17-7-1947, Người báo cho Ban thường trực của Ban tổ chức "Ngày thương binh toàn quốc" :

"Tôi xin xung phong gửi 1 chiếc áo lót lụa của chị em phụ nữ đã biếu tôi, 1 tháng lương của tôi, 1 bữa ăn của tôi, và của các nhân viên tại Phủ Chủ tịch, cộng là một nghìn một trăm hai mươi bảy đồng(1.127đ.00)1. Sau này, Người còn nhiều lần gửi tiền tiết kiệm, nhuận bút của mình ủng hộ thương binh, gia đình lịêt sĩ, người có công với nước.

Người dành thời gian viết nhiều bài báo ca ngợi, biểu dương những tấm gương liệt sĩ anh hùng. Như Mạc Thị Bưởi, Bế Văn Đàn, Phan Đình Giót. Ca ngợi các cán bộ lãnh đạo của Đảng hy sinh vì nước như Trần Phú, Ngô Gia Tự, Lê Hồng Phong, Hà Huy Tập, Nguyễn Văn Cừ, Nguyễn Thị Minh Khai, Hoàng Văn Thụ, v,v. Biểu dương các thương binh có nhiều thành tích trong học tập, tăng gia sản xuất, trở thành các chiến sĩ thi đua và lao động xuất sắc. Như các anh Trần Chút ở Cẩm Xuyên Hà Tĩnh, Nguyễn Văn Hơn người miền Nam, công tác ở Nghệ An, Phạm Văn Tiêm, ở Nông trường Đông Hiếu, v,v.

Người nhiều lần viết thư cho các thương binh, gia đình liệt sĩ, đặc biệt là vào các dịp lễ, tết, kịp thời biểu dương công lao, khuyến khích họ lạc quan, hăng hái tăng gia sản xuất, thực hành tiết kiệm, góp phần xây dựng cuộc sống mới. Giữ vững truyền thống tốt đẹp, vẻ vang của quân đội cách mạng. Giữ vững kỷ luật, thật sự đoàn kết thương yêu lẫn nhau giữa anh em thương binh, bệnh binh với nhau, giữa thương binh, bệnh binh với các cán bộ, nhân viên y tế chăm sóc họ, và với đồng bào địa phương. Khuyên họ không nên công thần, ỷ lại, kém tin tưởng, hoặc yêu cầu nhân dân quá đáng, không tích cực công tác,v,v.

Tất cả các lời kêu gọi, thư từ, bài viết, nói chuyện với các tầng lớp nhân dân ta và hành động thực tế của Người đều toát lên một tinh thần thấu hiểu anh chị em thương binh, bệnh binh, gia đình liệt sĩ. Mong muốn, cổ vũ đồng bào các địa phương sẵn sàng trợ giúp thương binh, bệnh binh và gia đình liệt sĩ, người có công với nước trong việc sản xuất làm ăn, nghỉ ngơi, giải trí. Và yêu cầu các cơ quan Đảng, Nhà nước, Đoàn thể phải chấp hành một cách chu đáo các chính sách của Đảng và Chính phủ đối với thương binh, bệnh binh và gia đình liệt sĩ và người có công với nước.

Với một tấm lòng ưu ái, một tâm hồn và trái tim vĩ đại, trước lúc đi xa, trong Di chúc cho Đảng cho Dân, Người thiết tha nhắn lại với đời:

"Đầu tiên là công việc với con người. Đối với những người đã dũng cảm hy sinh một phần xương máu của mình (cán bộ, binh sĩ, dân quân, du kích, thanh niên xung phong...), Đảng, Chính phủ và đồng bào phải tìm mọi cách làm cho họ có nơi ăn chốn ở yên ổn, đồng thời phải mở những lớp dạy nghề thích hợp đối với mỗi người để họ có thể dần dân "tự lực cánh sinh".

Đối với các liệt sĩ, mỗi địa phương (thành phố, làng xã) cần xây dựng vườn hoa và bia kỷ niệm ghi sự hy sinh anh dũng của các liệt sĩ, để đời đời giáo dục tinh thần yêu nước cho nhân dân ta.

Đối với cha mẹ, vợ con (của thương binh và liệt sĩ), người có công với nước mà thiếu sức lao động và túng thiếu, thì chính quyền địa phương (nếu ở nông thôn thì chính quyền xã cùng hợp tác xã nông nghiệp) phải giúp đỡ họ có công ăn việc làm thích hợp, quyết không để họ bị đói rét"1.

Các thế hệ hôm nay và mai sau không thể quên bổn phận thực hiện di huấn của Người.





1 Hồ Chí Minh: Toàn tập, tập 5, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, tr 466.

1 Hồ Chí Minh: Toàn tập, tập 5, s,đ,d, tr 466-467.

2 Hồ Chí Minh: Toàn tập, tập 5, s,đ,d, tr 40.

1 Hồ Chí Minh: Toàn tập, tập 5, s,đ,d, 176.

1 Hồ Chí Minh: Toàn tập, tập 12, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996, tr 503-504.



http://tutuonghochiminh.vn/examine/chu-tich-ho-chi-minh-quan-tam-toi-thuong-binh-gia-dinh-liet-si-va-nguoi-co-cong-voi-nuoc.d-750.aspx

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét