14-01-2012
PGS,TS
Nguyễn Thế Thắng*
Thực hành dân chủ là một nội dung quan trọng
trong việc xây dựng Đảng, góp phần làm cho Đảng trong sạch vững mạnh.
Chủ tịch Hồ Chí Minh coi Dân chủ là chiếc chìa khoá vạn năng trong
công tác cách mạng. Trong Di chúc Người căn dặn: ”Trong Đảng thực hành
dân chủ rộng rãi, thường xuyên và nghiêm chỉnh tự phê bình và phê
bình là cách tốt nhất để củng cố và phát triển sự đoàn kết thống
nhất của Đảng. Phải có tình đồng chí thương yêu lẫn nhau”1.
Trong điều kiện Đảng cầm quyền hiện nay, quán triệt tư tưởng của
Người về thực hành dân chủ trong Đảng trong sinh hoạt của Đảng bộ các
cấp là hết sức cần thiết.
- Những quyền dân chủ cơ bản của Đảng viên.
Chủ tịch Hồ Chí Minh coi dân chủ là quyền lợi
cơ bản nhất của người Đảng viên. Người khẳng định:
“Mọi đảng viên có những quyền lợi như sau:
1) Có quyền tự do và thiết thực thảo luận cách thi
hành chính sách của Đảng, trên các báo chí và trong các cuộc hội nghị của Đảng.
Để thi hành triệt để chính sách và công tác của Đảng,
mọi đảng viên có quyền tự do phát biểu ý kiến của mình (trên báo chí và trong
hội nghị của Đảng), dù ý kiến ấy không đồng ý với ý kiến của đại đa số, không
ai được ngăn cấm.
2) Có quyền tuyển cử và ứng cử vào các cơ quan lãnh
đạo của Đảng.
3) Có quyền đưa ra những đề nghị, những thanh minh,
những lời kêu nài trước các cơ quan của Đảng, từ chi bộ đến Trung ương, không
ai được ngăn trở.
4) Trong các cuộc hội nghị của Đảng có quyền phê bình
đảng viên và cán bộ, phê bình công tác của các cơ quan Đảng.
Vì quyền phê bình ấy có thể nâng cao tính hăng hái và
tinh thần phụ trách của các đảng viên; có thể đảm bảo sự đấu tranh của đảng
viên chống những cái gì có hại đến Đảng; quyền phê bình là một vũ khí chống
quan liêu, mệnh lệnh; nó cải thiện sự quan hệ giữa cán bộ và đảng viên; nó giúp
cải thiện các công việc của Đảng.
Vì vậy, mọi người phải tôn trọng quyền phê bình của
đảng viên”2.
Quyền dân chủ của người đảng viên rất lớn.
Song, trong Xây dựng Đảng, để có thể thực hiện được dân chủ, Chủ
tịch Hồ Chí Minh thường nêu vấn đề dân chủ đi đôi với tập trung.
2- Tập trung trên nền tảng dân
chủ
Chủ tịch Hồ Chí Minh vạch rõ: tập trung có
nghĩa là Cơ quan lãnh đạo của Đảng có uy tín và quyền lực chân
chính. Những phương châm chính sách, nghị quyết của Đảng, mọi đảng
viên nhất định phải chấp hành. Kỷ luật của Đảng, mọi Đảng viên phải
tuân theo. Quyền lực đó là tập trung, nhưng không phải là cá nhân
chuyên chính, độc đoán, chuyên quyền. Tập trung đúng đắn phải được “Xây
dựng trên nền tảng dân chủ”3.
Tập trung xây dựng trên nền tảng dân chủ thể hiện ở 4 nội dung cơ bản
sau:
Một là: Các cơ quan lãnh đạo đều do quần chúng đảng viên bầu cử
lên.
Hai là: Phương châm, chính sách, nghị quyết của Đảng đều do quần
chúng đảng viên tập trung kinh nghiệm và ý kiến lại mà thành. Rồi lại do
các cuộc hội nghị của Đảng thảo luận giải quyết, chứ không ai được tự ý độc
đoán.
Ba là: Quyền lực của cơ quan lãnh đạo là do quần chúng đảng
viên giao phó cho, chứ không phải tự ai tranh giành được. Vì vậy, người lãnh
đạo phải gần gũi và học hỏi quần chúng đảng viên, nghe ngóng ý kiến của họ. Nếu
lên mặt với quần chúng, lạm dụng quyền lực - thế là sai lầm.
Bốn là: Trật tự của Đảng là: cá nhân phải phục tùng tổ chức; số ít phải
phục tùng số nhiều; cấp dưới phải phục tùng cấp trên; các địa phương phải phục
tùng Trung ương.
Dân chủ là nền tảng của tập trung. Cần phải
mở rộng dân chủ trong Đảng. Song, Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng chỉ rõ “Dân
chủ dưới sự chỉ đạo tập trung”4.
Bác Hồ bỏ
phiếu bầu cử Quốc hội đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ngày
6/1/1946. Ảnh tư liệu
|
3- Dân chủ dưới sự chỉ đạo tập
trung.
Chủ tịch Hồ Chí Minh vạch rõ giới hạn của
quyền dân chủ trong Đảng. “Ở trong Đảng, mọi đảng viên có quyền nêu ý kiến,
đặt đề nghị, tham gia giải quyết vấn đề. Nhưng quyết không được trái sự lãnh
đạo tập trung của Đảng, trái nghị quyết và trái kỷ luật của Đảng. Quyết chống: không
xét thời gian, địa điểm, điều kiện mà nói lung tung; tự do hành động; dân chủ
quá trớn”5.
Dân chủ dưới sự chỉ đạo của tập trung thể
hiện ở 4 nội dung sau:
Một là: Chỉ có cơ quan lãnh đạo có quyền mở các cuộc hội nghị.
Hai là: Tất cả các nghị quyết của Đảng phải do cơ quan lãnh đạo chuẩn bị kỹ
càng, rồi giao cho các cấp thảo luận. Không được làm qua loa, sơ sài,
Ba là: Khi bầu cử các cơ quan lãnh đạo trong Đảng, phải xem xét rất kỹ
lưỡng để lập danh sách những đảng viên ứng cử.
Bốn là: Toàn thể đảng viên phải theo đúng Đảng chương thống nhất, kỷ luật
thống nhất của Đảng. Toàn thể đảng viên phải theo sự lãnh đạo thống nhất
của Trung ương.
Dân chủ và tập là hai mặt của một vấn đề.
Không nên tách dân chủ khỏi tập trung cũng như không thể tách rời tập
trung khỏi dân chủ.
Người khẳng định: “Nói tóm lại: Để làm cho Đảng
mạnh, thì phải mở rộng dân chủ (thật thà tự phê bình và phê bình), thực
hành lãnh đạo tập trung, nâng cao tính tổ chức và tính kỷ luật”6.
4- Tập thể lãnh đạo là dân
chủ. Cá nhân phụ trách là tập trung.
Để thực hiện được nguyên tắc tập trung dân chủ
trong Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định rõ phải thực hiện nguyên
tắc tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách trong lề lối làm việc của
Đảng.
Tập thể lãnh đạo là dân chủ và cần phải thực hành tập thể lãnh đạo. Vì, một người dù
khôn ngoan tài giỏi mấy, dù nhiều kinh nghiệm đến đâu, cũng chỉ trông
thấy, chỉ xem xét được một hoặc nhiều mặt của một vấn đề, không
thể trông thấy và xem xét tất cả mọi mặt của một vấn đề. Vì vậy,
cần phải có nhiều người. Nhiều người thì nhiều kinh nghiệm. Người
thì thấy rõ mặt này, người thì trông thấy rõ mặt khác của vấn đề
đó.
Góp kinh nghiệm và sự xem xét của nhiều người,
thì vấn đề đó được thấy rõ khắp mọi mặt. Mà có thấy rõ khắp mọi
mặt, thì vấn đề ấy mới được giải quyết chu đáo, khỏi sai lầm.
Cần phải cá nhân phụ trách, có nghĩa là việc
gì đã được đông người bàn bạc kỹ lưỡng rồi, kế hoạch định rõ ràng
rồi, thì cần phải giao cho một người hoặc một nhóm ít người phụ
trách theo kế hoạch đó mà thi hành. Như thế mới có chuyên trách, công
việc mới chạy. Phụ trách không do cá nhân, thì sẽ đi đến cái tệ bừa
bãi lộn xộn, vô chính phủ. Kết quả là hỏng việc. Vì thế, nên Cần
lãnh đạo phải tập thể, mà phụ trách cần cá nhân.
Lãnh đạo không tập thể, thì sẽ đưa đến cái tệ
bao biện, độc đoán chủ quan. Kết quả cũng là hỏng việc.
5. Cán bộ lãnh đạo phải phát
huy quyền dân chủ của đảng viên.
Tuy nhiên, trong thực tế không phải ở đâu, lúc
nào quyền dân chủ của đảng viên cũng được tôn trọng, việc tự phê
bình và phê bình được thực hiện nghiêm túc. Không ít nơi có tình
trạng phê bình và tự phê bình qua loa, chiếu lệ, đại khái, chung
chung, cả nể, hoặc không dám nói ra sự thật. Cán bộ, đảng viên ít sáng
kiến, ít hăng hái do có những người lãnh đạo thiếu dân chủ. Người
vạch rõ:
”Cách lãnh đạo của ta không được dân chủ, cách
công tác của ta không được tích cực. Nếu ai nói chúng ta không dân
chủ, thì chúng ta khó chịu. Nhưng nếu chúng ta tự xét cho kỹ, thì
thật có như thế. Đối với cơ quan lãnh đạo, đối với những người lãnh
đạo, các đảng viên và cán bộ dù có ý kiến cũng không dám nói, dù
muốn phê bình cũng sợ, không dám phê bình”7.
Cho nên trong Đảng phải phát huy dân chủ đến cao
độ mới làm cho cán bộ, đảng viên hăng hái, đề ra nhiều sáng kiến. Đảng
có phát huy dân chủ đến cao độ, làm cho nhân dân biết hưởng quyền dân
chủ, biết dùng quyền dân chủ của mình, dám nói, dám làm, thì mới
động viên được tất cả lực lượng của nhân dân đưa cách mạng tiến lên.
6. Muốn thực hành dân chủ phải
chống quan liêu, mệnh lệnh.
Đảng ta luôn nêu cao nguyên tắc tập trung dân chủ.
Song, cũng có nơi này nơi khác có tình trạng mất dân chủ. Một số
cán bộ lãnh đạo quan liêu, xa dân, độc đoán, gia trưởng. Có cán bộ
lãnh đạo trù dập, ức hiếp quần chúng. Nhiều trường hợp quyền dân
chủ của đảng viên, của nhân dân không được tôn trọng, phát huy. Chủ
tịch Hồ Chí Minh vạch rõ ai cũng biết bệnh quan liêu, mệnh lệnh là
nguy hiểm. Nhưng trong công tác thực tế, nhiều cán bộ ta còn mắc căn
bệnh đó. ”Miệng thì nói dân chủ, nhưng làm việc thì họ theo lối quan
chủ”8.
Cho nên Đảng phải lãnh đạo cuộc đấu tranh chống bệnh quan liêu và
chống cả những bệnh lợi dụng bộ máy, địa vị của Đảng, Nhà nước
để tham ô , lãng phí, mới có thể thực thi được dân chủ. Người khẳng
định rõ: “Chống tham ô, lãng phí, quan liêu là dân chủ”9.
Cần phải có sự kiểm tra, giám sát của các cơ
quan kiểm tra, thanh tra của Đảng, Nhà nước, và nhất là sự kiểm tra,
giám sát của nhân dân với hoạt động của các Đảng viên và tổ chức
Đảng, các quyền dân chủ của cán bộ, đảng viên mới có thể được thực
hiện nghiêm túc. Đảng phải dựa vào nhân dân để xây dựng Đảng, trong
đó có việc dựa vào nhân dân để thực thi dân chủ ngay trong Đảng, để
từ đó có thể phát triển dân chủ trong toàn xã hội.
Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định rõ: “ Dân chủ
là dựa vào lực lượng quần chúng, đi đúng đường lối quần chúng. Cho
nên phong trào chống tham ô, lãng phí, quan liêu ắt phải đựa vào lực
lượng quần chúng thì mới thành công”10.
7. Mở rộng phê bình và tự phê
bình mới mở rộng dân chủ.
Một trong những nguyên nhân khiến cán bộ lãnh
đạo, quản lý thiếu dân chủ là do trong lòng họ còn mang nặng chủ
nghĩa cá nhân, thích được tâng bốc, nịnh nọt. Trong dùng người, thích
dùng những kẻ khéo nịnh hót, nhát gan, dễ bảo mà chán ghét những
người chính trực. Người cho rằng cán bộ lãnh đạo quản lý có phong
cách làm việc dân chủ là phải:
”Khiến cho cán bộ cả gan nói, cả gan đề ra ý
kiến. Người lãnh đạo muốn biết rõ ưu điểm và khuyết điểm của mình,
muốn biết công tác của mình tốt hay xấu, không gì bằng khuyên cán bộ
mình mạnh bạo đề ra ý kiến và phê bình. Như thế, chẳng những không
phạm đến uy tín của người lãnh đạo mà lại tỏ ra dân chủ thật thà
trong Đảng”11.
Song, trong thực tế, như Người thường nhắc nhở
rằng chúng ta còn kém về trình độ lý luận và về mặt nắm tình
hình thực tế, trong Đảng còn chưa xây đựng đầy đủ các chế độ công tác
thích hợp nên còn có tình trạng mất dân chủ. Cần chú ý là:
“Vì dân chủ nội bộ chưa thật mở rộng; vì phê
bình và tự phê bình chưa được phát huy, nhất là phê bình từ dưới
lên. Để sửa chữa những thiếu sót đó, chúng ta cần tăng cường sự
lãnh đạo tập thể từ Trung ương đến địa phương trong Đảng và trong cơ
quan chính quyền. Tập thể lãnh đạo phải đi đôi với cá nhân phụ
trách. Phải định rõ chế độ làm việc, bảo đảm nguyên tắc lãnh đạo
cao nhất của Đảng, tức là tập thể lãnh đạo. Phải mở rộng dân chủ;
phải mở rộng phê bình và tự phê bình, nhất là phê bình từ dưới lên”12.
8. Đảng ta vận dụng tư tưởng Hồ
Chí Minh về thực hành dân chủ trong Đảng vào sự nghiệp đổi mới.
Trong sự nghiệp đổi mới, Đảng ta xác định rõ
thực hiện dân chủ là một yêu cầu nội tại trong sự phát triển của
Đảng Cộng sản Việt Nam do Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập. Thực hiện
dân chủ trong Đảng cũng là một nguyện vọng chính đáng của đông đảo
cán bộ, đảng viên, và là phản ánh xu thế phát triển của thời đại. Nội
bộ Đảng không dân chủ thì mọi sáng kiến và trí tuệ trong Đảng không
được phát huy, tổ chức đảng không có sức mạnh. Hiện nay, mở rộng dân
chủ trong Đảng còn là một tiền đề cơ bản để đổi mới Đảng và thúc
đẩy công cuộc dân chủ hoá toàn xã hội. Do đó, Tại Đại hội Đảng lần
thứ X, Đảng ta khẳng định rõ:
“Phát huy dân chủ đi đôi với giữ gìn kỷ luật
trong Đảng. Mọi cán bộ đảng viên có quyền tham gia quyết định công
việc của Đảng; quyền được thông tin, thảo luận, tranh luận, nêu ý
kiến riêng, bảo lưu ý kiến trong tổ chức; khi đảng đã có nghị quyết
thì phải nói và làm theo nghị quyết.
Lãnh đạo các cấp phải lắng nghe ý kiến của
cấp dưới, của đảng viên và nhân dân. Xây dựng quy chế ra quyết định
của Đảng, bảo đảm phát huy trí tuệ tập thể; có cơ chế để nhân dân
bày tỏ ý kiến đối với những quyết định lớn, tham gia các công việc
của Đảng; khắc phục lối làm việc quan liêu, xa dân”13.
Mới đây, tại Đại hội Đảng lần thứ XI, Đảng
tiếp tục khẳng định:
“Thật sự phát huy dân chủ trong sinh hoạt đảng, từ
sinh hoạt chi bộ, sinh hoạt cấp uỷ ở cơ sở đến sinh hoạt Ban Bí thư, Bộ Chính
trị, Ban Chấp hành Trung ương; đồng thời giữ nghiêm kỷ luật trong Đảng. Thực
hiện đúng nguyên tắc tập trung dân chủ. Chống quan liêu, bè phái, cục bộ, địa
phương, lối làm việc vô nguyên tắc, vi phạm kỷ luật, vi phạm dân chủ”14.
Trong Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam thông
qua tại Đại hội XI. Ðiều 3 của Điều lệ đã khẳng định rõ những
quyền dân chủ cơ bản của Đảng viên. Đó là:
Một là: Ðược thông tin và thảo luận các vấn đề về Cương lĩnh chính trị, Ðiều lệ
Ðảng, đường lối, chủ trương, chính sách của Ðảng; biểu quyết công việc của
Ðảng.
Hai là: Ứng cử, đề cử và bầu cử cơ quan lãnh đạo các cấp của Ðảng theo quy định
của Ban Chấp hành Trung ương.
Ba là: Phê bình, chất vấn về hoạt động của tổ chức đảng và đảng viên ở mọi cấp
trong phạm vi tổ chức; báo cáo, kiến nghị với các cơ quan có trách nhiệm và yêu
cầu được trả lời.
Bốn là: Trình bày ý kiến khi tổ chức đảng nhận xét, quyết định công tác hoặc
thi hành kỷ luật đối với mình.
Ðảng viên dự bị có các quyền trên đây, trừ quyền biểu
quyết, ứng cử và bầu cử cơ quan lãnh đạo của Ðảng.
Để những quyền dân chủ đó được thực hiện, Ðiều
9 của Điều lệ quy định lề lối làm việc trong Đảng theo nguyên tắc
tập trung dân chủ với 6 nội dung cụ thể.
Một là: Cơ quan lãnh đạo các cấp của Ðảng do bầu cử lập ra, thực hiện tập thể
lãnh đạo, cá nhân phụ trách.
Hai là: Cơ quan lãnh đạo cao nhất của Ðảng là Ðại hội đại biểu toàn quốc. Cơ
quan lãnh đạo ở mỗi cấp là đại hội đại biểu hoặc đại hội đảng viên. Giữa hai kỳ
đại hội, cơ quan lãnh đạo của Ðảng là Ban Chấp hành Trung ương, ở mỗi cấp là
ban chấp hành đảng bộ, chi bộ (gọi tắt là cấp ủy).
Ba là: Cấp ủy các cấp báo cáo và chịu trách nhiệm về hoạt động của mình trước
đại hội cùng cấp, trước cấp ủy cấp trên và cấp dưới; định kỳ thông báo tình
hình hoạt động của mình đến các tổ chức đảng trực thuộc, thực hiện tự phê bình
và phê bình.
Bốn là: Tổ chức đảng và đảng viên phải chấp hành nghị quyết của Ðảng. Thiểu số
phục tùng đa số, cấp dưới phục tùng cấp trên, cá nhân phục tùng tổ chức, các tổ
chức trong toàn Ðảng phục tùng Ðại hội đại biểu toàn quốc và Ban Chấp hành
Trung ương.
Năm là: Nghị quyết của các cơ quan lãnh đạo của Ðảng chỉ có giá trị thi hành
khi có hơn một nửa số thành viên trong cơ quan đó tán thành. Trước khi biểu
quyết, mỗi thành viên được phát biểu ý kiến của mình. Ðảng viên có ý kiến thuộc
về thiểu số được quyền bảo lưu và báo cáo lên cấp ủy cấp trên cho đến Ðại hội
đại biểu toàn quốc, song phải chấp hành nghiêm chỉnh nghị quyết, không được
truyền bá ý kiến trái với nghị quyết của Ðảng. Cấp ủy có thẩm quyền nghiên cứu
xem xét ý kiến đó; không phân biệt đối xử với đảng viên có ý kiến thuộc về
thiểu số.
Sáu là: Tổ chức đảng quyết định các vấn đề thuộc phạm vi quyền hạn của mình,
song không được trái với nguyên tắc, đường lối, chính sách của Ðảng, pháp luật
của Nhà nước và nghị quyết của cấp trên.
Đó là căn cứ cơ bản để có sự hiểu đúng và
có sự thống nhất nhận thức về vấn đề dân chủ trong Đảng hiện nay.
Hiểu đúng bản chất nội dung của vấn đề dân chủ trong Đảng đã khó,
nhưng khó hơn và cũng là điều có tính chất quyết định là việc biến
những hiểu biết cơ bản này thành cơ chế thực hiện và được toàn
Đảng toàn dân thực hiện với một quyết tâm cao nhất.
Chú Thích:
2 Hồ Chí Minh: Toàn tập, T7, NXB Chính
trị quốc gia, Hà Nội, 1996, tr.239-240.
3 Hồ Chí Minh: Toàn tập, T7, s.đ,d, tr.
240.
4 Hồ Chí Minh: Toàn tập, T7, s.đ.d, tr.
241.
5 Hồ Chí Minh: Toàn tập, T7, s.đ.d, tr. 241
6 Hồ Chí Minh: Toàn tập, T7, s.đ.d, tr. 241
7 Hồ Chí Minh: Toàn tập, T5, NXB Chính
trị quốc gia, Hà Nội, 1995, tr 243.
8 Hồ Chí Minh: Toàn tập, T6, NXB Chính
trị quốc gia, Hà Nội, 1996, tr 292.
9 Hồ Chí Minh: Toàn tập, T6, tr 494.
10 Hồ Chí Minh: Toàn tập, T6, s.đ,d, tr
495.
11 Hồ Chí Minh: Toàn tập, T5, s.đ,d, tr
280.
12 Hồ Chí Minh: Toàn tập, T8, s.đ,d, tr
157.
13 Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội
đại biểu toàn quốc lần thứ X, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2006, tr 134.
14 Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội
đại biểu toàn quốc lần thứ Xi, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2011, tr. tr
.
http://tutuonghochiminh.vn/cmvn/tu-tuong-ho-chi-minh-ve-thuc-hanh-dan-chu-trong-dang.d-591.aspx
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét