Tư tưởng triết học Hồ Chí Minh
Song Thành
Tạp chí Triết học
Phương pháp biện chứng Hồ Chí Minh là sự vận dụng thuần thục phương pháp biện chứng duy vật macxít
Hồ Chí Minh không có tác phẩm riêng bàn về phương pháp. Nhưng trong thực tế lãnh đạo và chỉ đạo cách mạng Việt Nam, Người đã vận dụng sáng tạo và nhuần nhuyễn các nguyên lý của phép biện chứng duy vật macxít kết hợp với các yếu tố biện chứng của triết học phương Đông qua đó tạo nên một hệ thống phương pháp riêng của mình, rất macxít mà cũng rất Hồ Chí Minh, không trộn lẫn được. Vì vậy, có thể nói, có phương pháp biện chứng của Hồ Chí Minh, phương pháp đó vẫn là phương pháp biện chứng của chủ nghĩa Mác - Lênin nhưng đã được vận dụng và chuyển hoá vào thực tiễn cách mạng Việt Nam để xử lý thành công những vấn đề do thực tiễn cách mạng Việt Nam đặt ra, nó in đậm màu sắc Việt Nam - Hồ Chí Minh và bằng cái riêng đã làm phong phú thêm cái chung.
Vậy nội dung và đặc điểm của phương pháp biện chứng Hồ Chí Minh là gì?
Biện chứng trong xử lý mối quan hệ giữa thực tiễn và lý luận, giữa cái riêng và cái chung.
Thực tiễn là tiêu chuẩn của chân lý, đó là quan điểm cốt lõi nhất của nhận thức luận macxít và cũng là nguyên lý cơ bản của phép biện chứng duy vật. Theo quan điểm của C.Mác: "ở mỗi dân tộc, lý luận bao giờ cũng chỉ được thực hiện theo mức độ mà nó là sự thực hiện những nhu cầu của dân tộc ấy". Nói cách khác, lý luận chỉ được coi là đúng đắn khi nó đáp ứng được nhu cầu thực tiễn của mỗi dân tộc.
Hồ Chí Minh cũng quan niệm: "Lý luận là đem thực tế trong lịch sử, trong kinh nghiệm, trong các cuộc tranh đấu, xem xét so sánh thật kỹ lượng, rõ ràng, làm thành kết luận. Rồi lại đem nó chứng minh với thực tế, đó là lý luận chân chính".
Theo quan niệm đó, Hồ Chí Minh luôn luôn lấy thực tiễn, lấy sự kiện của đời sống dân tộc và thời đại làm định hướng cho tư duy và hành động, lấy mục tiêu độc lập và phát triển của dân tộc làm căn cứ để xem xét lý luận, để lựa chọn con đường và bước đi cho cách mạng Việt Nam, nhờ đó mà tránh được giáo điều, rập khuôn (do chỉ biết lặp lại cái chung), đồng thời cũng tránh để không rơi vào cơ hội, xét lại (do quá nhấn mạnh cái riêng, cái đặc thù).
Đi theo chủ nghĩa Mác - Lênin, tìm thấy con đường giải phóng dân tộc theo con đường cách mạng vô sản, nhưng Hồ Chí Minh biết rút ra từ học thuyết cách mạng và khoa học rộng lớn này những vấn đề cần thiết cho giai đoạn trước mắt của cách mạng Việt Nam, đề ra đường lối đúng đắn cho cách mạng Việt Nam: từ giải phóng dân tộc đến giải phóng giai cấp và giải phóng con người, tức là từ độc lập dân tộc tiến lên CHXH.
Tiếp theo, trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, nhờ đứng vững trên quan điểm thực tiễn và đường lối độc lập tự chủ, một mặt, chúng ta vẫn tranh thủ viện trợ kinh tế và quân sự của các nước XHCN anh em, mặt khác, chúng ta lại đánh theo đường lối và cách đánh Việt Nam, phù hợp với chiến trường Việt Nam, vì vậy ta đã giành được thắng lợi vẻ vang: giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, đưa cả nước đi lên CHXH.
Khi miền Bắc từ một nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu, tiền tư bản bước vào thời kỳ quá độ lên CHXH, Hồ Chí Minh đặt vấn đề: "Chúng ta phải đùng những phương pháp gì, hình thức gì, đi theo tốc độ nào để tiến lên CHXH" và Người nhắc nhở: "Tuy chúng ta đã có những kinh nghiệm dồi đào của các nước anh em, nhưng chúng ta cũng không thể áp dụng những kinh nghiệm ấy một cách máy móc, bởi vì nước ta có những đặc điểm riêng của ta".
Đó là biện chứng Hồ Chí Minh trong xử lý mối quan hệ giữa thực tiễn và lý luận, giữa cái riêng và cái chung.
Biện chứng trong xử lý mối quan hệ giữa mâu thuẫn và thống nhất của các mặt đối lập.
Theo quan điểm macxít, quy luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập là quy luật cơ bản nhất của phép biện chứng duy vật, bởi mâu thuẫn là hiện tượng phổ biến của mọi sự vật, hiện tượng và đấu tranh để đi tới chuyển hoá giữa các mặt đối lập của mâu thuẫn là nguồn gốc của vận động và phát triển.
Hồ Chí Minh cũng thừa nhận tính phổ biến của mâu thuẫn. Người viết: "Cái gì cũng có mâu thuẫn, vì cái gì cũng có biến âm, dương, có sinh có tử, có quá khứ, có tương lai, có cũ, có mới. Đó là những mâu thuẫn sẵn có trong mọi sự vật".
Mâu thuẫn có nhiều loại với bản chất khác nhau: có mâu thuẫn bên trong và bên ngoài, cơ bản và không cơ bản, chủ yếu và thứ yếu, đối kháng và không đối kháng. Vì vậy, phân tích mâu thuẫn là điều kiện để nhận thức đúng sự vật. Hồ Chí Minh chính là một bậc thầy trong nhận thức, phát hiện và xử lý mâu thuẫn.
Trong đấu tranh dân tộc và đấu tranh giai cấp có nhận thức, phát hiện đúng mâu thuẫn mới xác định rõ kẻ thù và bạn đồng minh, mới đề ra được chiến lược, sách lược, bước đi đúng đắn cho mỗi giai đoạn của cách mạng.
Vận dụng phép biện chứng duy vật vào phân tích xã hội thuộc địa, nửa phong kiến Việt Nam đầu thế kỷ XX, Hồ Chí Minh đã phát hiện ra hai mâu thuẫn cơ bản: một là, mâu thuẫn vốn có của xã hội phong kiến là mâu thuẫn giữa nông dân và địa chủ phong kiến và hai là, mâu thuẫn giữa toàn thể dân tộc Việt Nam với bọn thực dân xâm lược Pháp, từ đó Hồ Chí Minh xác định nhân dân Việt Nam có hai kẻ thù chính là đế quốc và phong kiên tay sai, cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở Việt Nam có hai nhiệm vụ cơ bản là chống đế quốc giành lại độc lập cho dân tộc và chống phong kiên đem lại ruộng đất cho dân cày.
Tuy xác định xã hội thực dân nửa phong kiến Việt Nam có hai mâu thuẫn cơ bản, nhưng trong việc xử lý mâu thuẫn, Hồ Chí Minh không coi hai mâu thuẫn đó ngang nhau, phải tiến hành song song, đồng thời. Theo Hồ Chí Minh, trong xã hội thuộc địa nửa phong kiến, mâu thuẫn nổi lên gay gắt nhất, trở thành mâu thuẫn chủ yếu là mâu thuẫn giữa toàn thể dân tộc Việt Nam với đế quốc và bọn tay sai, có giải quyết được vấn đề dân tộc mới giải quyết được vấn đề dân chủ. Vì vậy, ngay trong Chính cương vắn tắt (1930), Hồ Chí Minh cũng chỉ nêu chủ trương "thâu hết ruộng đất của đế quốc chủ nghĩa làm của công, chia cho dân cày nghèo" mà chưa nêu khẩu hiệu "người cày có ruộng". Hội nghị Trung ương 8 (tháng 5/1941) dưới sự chủ trì của Hồ Chí Minh, cũng chủ trương tạm gác khẩu hiệu ruộng đất, chỉ tịch thu ruộng đất của đế quốc, Việt gian, đề thêm khẩu hiệu "giảm tô, giảm tức", chia lại ruộng công,...
Làm.như vậy, theo Hội nghị phân tích, nếu không đánh đuổi được Pháp - Nhật, nếu dân tộc còn phải chịu mãi kiếp ngựa trâu thì vấn đề ruộng đất cũng không sao giải quyết được. Cuộc Cách mạng tháng 8/1945 đã lôi cuốn hàng chục triệu nông dân, dù chưa được chia lại ruộng đất của địa chủ vẫn hăng hái tiến bước cùng giai cấp công nhân làm nên cuộc cách mạng long trời lở đất, giành lại nền độc lập cho dân tộc. Thắng lợi đó là sự thể hiện phép biện chứng của Hồ Chí Minh trong xử lý mối quan hệ giữa mâu thuẫn cơ bản và mâu thuẫn chủ yếu trong cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở Việt Nam.
Hồ Chí Minh cũng là bậc thầy về xử lý mâu thuẫn địch - ta, nêu tấm gương về nghệ thuật vận dụng mâu thuẫn, khai thác mâu thuẫn trong hàng ngũ kẻ thù. Theo quyết định của Đồng minh tại Hội nghị Pốtxđam (tháng 7/1945), gần 20 vạn quân Tưởng đổ vào Bắc Đông Dương (từ vĩ tuyến 16 trở ra) và hàng vạn quân Anh - Ấn Độ đổ vào Nam Đông Dương với danh nghĩa giải giáp quân đội Nhật. Núp dưới bóng quân đội Anh, thực dân Pháp cũng đem quân trở lại nước ta. Nếu kể cả quân đội Nhật tuy đã đầu hàng nhưng chưa bị tước vũ khí, thì vào lúc đó, có gần nửa triệu quân nước ngoài đóng trên đất nước ta. Cùng một lúc phải đối phó với nhiều kẻ thù, tình thế cách mạng Việt Nam như đang "nghìn cân treo sợi tóc". Để bảo vệ thành quả cách mạng, Hồ Chí Minh chủ trương phải phân hoá kẻ thù, bằng cách khai thác mâu thuẫn trong hàng ngũ của chúng.
Quân đội Tưởng vào miền Bắc có ba thế lực: cánh Lư Hán thuộc Đệ nhất chiến khu Vân Nam, cánh Tiêu Văn thuộc Đệ tứ chiến khu Quảng Tây, cánh Chu Phúc Thành thuộc quân khu Trung ương Trùng Khánh. Chúng giống nhau về mục tiêu "diệt cộng, cầm Hồ" để dựng lên chính phủ tay sai, phục vụ cho mưu đồ lâu dài của chúng, nhưng mâu thuẫn với nhau về lợi ích cá nhân. Biết Lư Hán vốn có tư thù sâu sắc với Tưởng Giới Thạch và cả với Pháp (vì đã bị Pháp tịch thu mấy chuyến hàng lớn trên tuyến đường sắt Hải Phòng Côn Minh), Hồ Chí Minh đã chủ động tới thăm chúng nhằm tranh thủ Lư Hán, đồng thời, nhượng bộ cho vợ chồng Tiêu Văn một số đặc quyền kinh tế để cô lập cánh Chu Phúc Thành... Nhờ đó, chúng ta buộc họ phải thay đổi thái độ đối với Chính phủ Hồ Chí Minh, đã sử dụng được lực lượng quân đội Tưởng làm bình phong, ngăn chặn quân đội Pháp đang lăm le ra miền Bắc.
Trong hàng ngũ tướng lĩnh quân đội Pháp cũng chia thành hai phe: cánh diều hâu chủ chiến, đứng đầu là Cao ủy Đông Dương Đácgiăngliơ (D'argenlieu), cánh tương đối hiểu biết, muốn hoà hoãn, tiêu biểu là đại tướng Lơcléc (Leclerc), tổng chỉ huy quân đội viễn chinh. Hồ Chí Minh đã viết thư gửi Lơcléc: "Ngài là một đại quân nhân và là một nhà ái quốc. Ngài đã chiến thắng và chiến thắng anh dũng kẻ xâm lăng nước ngài... Lừng danh với những chiến công, ngài lại đi đánh một dân tộc chỉ muốn độc lập, thống nhất quốc gia và một nước chỉ muốn hợp tác như anh em với nước ngài sao?".
Lòng tụ trọng bị tổn thương, ít lâu sau Lơcléc từ chức Tổng chỉ huy, xin chuyển về Pháp, mở đầu cho sự liên tục thay đổi Tổng chỉ huy quân đội Pháp ở Đông Dương.
Đánh giá sách lược của Hồ Chí Minh
Trong giai đoạn này, đồng chí Lê Duẩn đã viết: "Những biện pháp cực kỳ sáng suốt đã ghi vào lịch sử cách mạng nước ta như một mẫu mực tuyệt vời của sách lược Lêninnít về lợi dụng mâu thuẫn trong hàng ngũ kẻ địch và về sự nhân nhượng có nguyên tắc".
Nhắc lại những năm tháng đó, đồng chí Phạm Văn Đồng cũng viết: "Nếu bấy giờ không có Hồ Chí Minh thì khó lường hết cái gì có thể xảy ra".
Đối với mâu thuẫn địch - ta, chỉ có một cách xử lý duy nhất là "Hễ còn một tên xâm lược trên đất nước ta, thì ta phải kiên quyết đánh đuổi nó đi". Còn với mâu thuẫn trong nội bộ nhân dân, xuất phát từ quan điểm "Hễ là người Việt Nam thì ai cũng có lòng yêu nước, ghét giặc", Hồ Chí Minh chủ trương đoàn kết mọi lực lượng "miễn là không phản lại quyền lợi dân chúng, không là Việt gian, thân Pháp, thân Nhật, có lòng trung thành với Tổ quốc”, "Không được phép bỏ một lực lượng nào sẵn sàng phục vụ quốc gia".
Phương pháp đại đoàn kết Hồ Chí Minh là lấy cái chung, cái tương đồng để khắc phục cái riêng, cái dị biệt, lấy nhân ái, khoan đung để cảm hoá, lấy nhân nhượng, thoả hiệp lẫn nhau để giải quyết bất đồng, "biến đại sự thành tiểu sự, biến tiểu sự thành vô sự". Người phê phán một số cán bộ chỉ biết "chia rẽ, bênh vực lớp này chống lại lớp khác, không biết làm cho các tầng lớp nhân nhượng lẫn nhau, hoà thuận với nhau... quên rằng lúc này ta phải toàn dân đoàn kết, không chia già trẻ, giàu nghèo để giữ nền độc lập, chống kẻ thù chung".
Như vậy, trong mâu thuẫn nội bộ nhân dân (mâu thuẫn không đối kháng), có mặt thuận và mặt nghịch, bên cạnh mặt mâu thuẫn còn có mặt thông nhất, để tồn tại trong sự thống nhất, phải biết lấy thuận chế nghịch, lấy cái chung, cái đồng thuận để khắc phục cái riêng, cái dị biệt. Đó là biện chứng trong cách xử lý của Hồ Chí Minh về mối quan hệ giũa mâu thuẫn và thống nhất các mặt đôi lập.
Biện chứng giữa cái "bất biến" và cái “vạn biến".
Đây là một tư tưởng biện chứng hết sức sâu sắc của triết học phương Đông, xuất phát từ quan niệm vạn vật sinh hoá đều do điều lý (quy luật) chi phối, nếu nắm được điều lý của vũ trụ thì có thể điều khiển được mọi biến hoá của trời đất (hiện tượng), nghĩa là có thể lấy cái bất biến chế ngự được cái vạn biến, lấy tĩnh chế động, lấy nhu thắng cương...
Phép biện chứng duy vật macxít cũng đã đề cập đến các cặp mâu thuẫn và thống nhất, vận động và đứng im, nhưng mối quan hệ giữa bất biên và vạn biên trong phép biện chứng của Hồ Chí Minh có nguồn gốc chủ yếu từ trong triết học phương Đông và Việt Nam. Xưa Lý Thánh Tông, khi đi lo việc biên cương ở phương Nam, có dặn lại nhiếp chính Ỷ Lan một câu: "Vạn biến như lôi, nhất tâm thiền định", ý nói cứ lấy nhất tâm bất biến (là một lòng lo giữ việc nước) thì có thể đối phó với vạn biên (dù có dữ dội như sấm sét).
Vậy ta hiểu "dĩ bất biến ứng vạn biến" mà Hồ Chí Minh nói đến là gì? Theo cách nói của triết học, có thể hiểu "bất biên" là quy luật, vì chỉ có quy luật (tự nhiên, xã hội, tư duy) là tồn tại lâu đài, là hầu như bất biến, còn "vạn biến" là hiện tượng, là sự biểu hiện đa dạng của quy luật, cho nên có thể đưa vào quy luật mà lý giải hiện tượng hay ngược lại, từ phân tích vô vàn hiện tượng có thể tìm ra quy luật tương ứng.
Phép biện chứng duy vật thường chú trọng nhiều hơn về trình bày sự phát triển biện chứng của sự vật, coi mâu thuẫn, vận động là tuyệt đối, thông nhất, đứng im là tương đối. Trong thực tế vận dụng, đôi khi chúng ta lại có phần coi nhẹ, thậm chí bỏ qua cái "bất biến" (tức là cái thống nhất, đứng im vốn là điều kiện tồn tại của sự vật).
Trong vũ trụ và trong cuộc sống xã hội vốn tồn tại phạm trù "bất biến". Hoá học được xây đựng trên cơ sở định luật bảo toàn trọng lượng. Công thức có thể biến hoá, nhưng trị số thì không đổi. Năng lượng học dựa trên định luật bảo toàn năng lượng. Toán học có những hằng số, hằng đẳng thức không đổi. Về mặt xã hội, các chế độ xã hội đều có nhiều thay đổi, nhưng trong xã hội nào người ta cũng vẫn cần đến ăn, mặc, ở... tức là vẫn phải có sản xuất và phân phối, nghĩa là sự khác nhau, như C.Mác nói, chỉ là về cách thức sản xuất và cách thức phân phối, còn bản thân sản xuất và phân phối thì xã hội nào cũng vẫn phải có. Cũng có thể gọi đó là các hằng số xã hội. Hồ Chí Minh tiếp thu phép biện chứng macxít, đồng thời cũng chịu ảnh hưởng của tư duy biện chứng phương Đông. Người thường bắt đầu từ cái bất biến để đi tới cái khả biến của xã hội và con người. Thí dụ, Người nói: "Tuy phong tục mỗi dân mỗi khác, nhưng có một điều thì dân nào cũng giống nhau ấy là dân nào cũng ưa sự lành, ghét sự dữ”. Khi nghe một vị ủy viên Ban vận động đời sống mới nói cần định ra một cái hướng mới cho cuộc vận động, vì khẩu hiệu "cần, kiệm, liêm, chính" xem ra vừa không đủ, vừa cổ... thì Hồ Chí Minh ngắt lời: "Cổ, lạ quá, thế cơm các cụ ăn ngày xưa, bây giờ mình ăn cũng cổ à?". Theo Người, ăn cơm, uống nước, hít thở khí trời... không bao giờ cũ, xưa nay và sau này đều phải làm. Cần, kiệm, liêm, chính cũng vậy.
Trước khi sang Pháp đàm phán, Người chỉ dặn lại cụ Huỳnh có một câu: "Mong cụ ở nhà: dĩ bất biến, ứng vạn biến". Ta hiểu đó là Người nói đến mối quan hệ giữa mục tiêu và phương pháp, nguyên tắc và sách lược. Mục tiêu của chúng ta là độc lập, thống nhất của Tổ quốc, tự do hạnh phúc của nhân dân, đó là điều bất biến còn phương pháp - sách lược có thể tuỳ tình hình mà biến hoá đa dạng, thay đổi linh hoạt, nhưng không được xa rời cái bất biến. Người nói: "Mục đích bất di bất dịch của ta vẫn là hoà bình, thống nhất, độc lập, dân chủ. Nguyên tắc của ta thì phải vững chắc, nhưng sách lược của ta thì linh hoạt".
Hồ Chí Minh đã vận dụng phương pháp biện chứng này một cách rất hiệu quả trong chỉ đạo cách mạng, đưa tới những thắng lợi to lớn chưa từng có trong lịch sử dân tộc. Đúng như một nhà báo Pháp đã nhận xét: "Chính sự kết hợp mà không ai bắt chước nổi giữa tính mềm dẻo với tính cương nghị, giữa tính linh hoạt về chính trị với tính cứng rắn về nguyên tắc, giữa việc vận dụng truyền thông yêu nước với sự phân tích macxít đã tạo nên tính chất độc đáo của ông Hồ Chí Minh".
Cũng xuất phát từ phép biện chứng Đông - Tây kết hợp này, chúng ta thấy Hồ Chí Minh đã giải quyết rất thành công, vừa khoa học, vừa nhuần nhị các mối quan hệ biện chứng giữa truyền thông và hiện đại, kế thừa và đổi mới, dân tộc và giai cấp, nội lực và ngoại lực, lực - thế, thời… mà do phạm vi của bài viết, chúng tôi không có điều kiện bàn hết ở đây.
Tóm lại, tư tưởng triết học Hồ Chí Minh được thể hiện một phần quan trọng trong phương pháp biện chứng Hồ Chí Minh. Về bản chất, đó là phương pháp biện chứng duy vật macxít được vận dụng vào hoàn cảnh Việt Nam, có sự kết hợp với tư duy biện chứng phương Đông, in đậm dấu ấn phương Đông và Việt Nam, nổi bật lên trong đó là sự kết hợp tính cương nghị về nguyên tắc với tính mềm dẻo, linh hoạt về sách lược, lấy cái đại đồng để khắc phục cái tiểu dị, đi từ dân tộc đến giai cấp, nhằm mục tiêu đại đoàn kết dân tộc, phân hoá và cô lập kẻ thù chính, giành thắng lợi cho độc lập dân tộc để từng bước đi lên CHXH. Phương pháp biện chứng Hồ Chí Minh cũng do đó mà có vai trò rất to lớn đối với công cuộc đổi mới của chúng ta, đặc biệt trong bối cảnh quốc tế đang chuyển biến nhanh chóng và phức tạp hiện nay.
Tư tưởng về con người, bộ phận cơ bản của tư tưởng triết học Hồ Chí Minh
Thấm nhuần quan điểm cải tạo thế giới của triết học Mác, vấn đề được Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm là vấn đề con người và sự nghiệp giải phóng con người. Con người trong tư tưởng Hồ Chí Minh không phải là con người chung chung, trừu tượng, phi lịch sử, mà là con người hiện thực, cụ thể, sinh động, trước hết là nhân dân lao động và quần chúng bị áp bức ở khắp mọi nơi, không phân biệt dân tộc và màu da.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về con người có thể tóm tắt lại trong ba nội dung cơ bản:
Con người là vôn quý nhất, là nhân tố quyết định thắng lợi của cách mạng
Theo Hồ Chí Minh, lịch sử là do quần chúng nhân dân sáng tạo ra, chứ không phải do vài ba cá nhân anh hùng nào, vì vậy chúng ta phải yêu dân, quý dân, trọng dân, vì "có dân là có tất cả". Người nói: "Trong bầu trời không gì quý bằng nhân dân. Trong thế giới, không gì mạnh bằng lực lượng đoàn kết của nhân dân". Do đó, "trong xã hội không có gì tất đẹp, vẻ vang bằng phục vụ cho lợi ích của nhân dân".
Từ đó, ta thấy nổi lên ở Hồ Chí Minh một tấm lòng yêu thương vô hạn đối với con người, một niềm tin mãnh liệt vào sức mạnh và phẩm giá con người, một ý chí kiên quyết đấu tranh để giải phóng con người khỏi áp bức, bất công, đói nghèo, lạc hậu. Cũng có thể coi đó là những nội dung cơ bản của chủ nghĩa nhân văn Hồ Chí Minh.
Con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của cách mạng
Tư tưởng Hồ Chí Minh về con người hoàn toàn xa lạ với các quan điểm xem con người như là công cụ, như là phương tiện. Mọi chính sách tăng trưởng kinh tế, phát triển văn hoá của Hồ Chí Minh đều hướng tới con người. Người nói: "Phải đem hết sức dân, tài dân, của dân để làm lợi cho dân", "dựa vào lực lượng của dân, tinh thần của dân để gây hạnh phúc cho dân", "chủ nghĩa xã hội là nhằm nâng cao đời sống vật chất và văn hoá của nhân dân và do nhân dân tự xây đựng lấy".
Qua đó, có thể thấy, trong tư tưởng Hồ Chí Minh, con người - mục tiêu và con người - động lực là thống nhất, vì dân và do dân là thống nhất.
Để phát huy vai trò động lực của con người, Hồ Chí Minh đã đề cập đến một hệ thống nội dung và biện pháp (vật chất và tinh thần) nhằm tác động vào cái động cơ thúc đẩy tính tích cực hoạt động của con người đồng thời, cũng chỉ ra những nội dung và biện pháp làm triệt tiêu các trở lực nhằm thúc đẩy sự phát triển theo hướng tiến bộ.
Trong hệ thống các động lực chính trị - tinh thần, Hồ Chí Minh chú trọng trước hết đến giáo dục chủ nghĩa yêu nước, lý tưởng xã hội chủ nghĩa, đạo đức cách mạng... đồng thời không coi nhẹ vai trò tác động của các nhân tố tinh thần khác, như văn hoá, khoa học, pháp luật... đặc biệt, Người chú trọng phát huy quyền làm chủ của nhân dân, coi "thực hành dân chủ là cái chìa khoá vạn năng có thể giải quyết mọi khó khăn".
Là nhà duy vật macxít, Hồ Chí Minh hiểu hành động của con người luôn gắn liền với nhu cầu và lợi ích của họ, vì vậy, đi đôi với các biện pháp chính trị - tinh thần, Hồ Chí Minh không coi nhẹ hay bỏ qua các động lực vật chất, khéo léo kết hợp các loại động lực với nhau, tạo sức mạnh tổng hợp, thúc đẩy tính năng động cách mạng của con người. Người tôn trọng và khuyến khích lợi ích cá nhân chính đáng của người lao động, chủ trương kết hợp hài hoà ba lợi ích, sao cho "Nhà nước, hợp tác xã và xã viên cùng có lợi".
Nhưng muốn khai thông động lực thì phải khắc phục trở lực kìm hãm sự phát triển của con người, trong đó "căn bệnh mẹ" cực kỳ nguy hiểm là chủ nghĩa cá nhân phải được phê phán mạnh mẽ, kiên quyết tẩy trừ
Tư tưởng về chiến lược "trăm năm trồng người"
Từ quan điểm về con người đến quan điểm về chiến lược "trồng người" là một bước phát triển hợp logic của tư tưởng triết học Rồ Chí Minh. Để thực hiện chiến lược kinh tế - xã hội thì chiến lược con người phải đi trước một bước. Từ rất sớm, Người đã nêu ra một luận điểm nổi tiếng: "Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội thì trước hết cần có những con người XHCN". Do đó, "vì lợi ích mười năm thì phải trồng cây, vì lợi ích trăm năm thì phải trồng người". "Bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau là một việc rất quan trọng và rất cần thiết" (Di chúc).
Quan điểm "trồng người" của Hồ Chí Minh rất toàn diện và phong phú, ở mỗi thời kỳ cách mạng, Người nêu ra những yêu cầu khác nhau. Bước vào thời kỳ xây dựng chủ nghĩa xã hội, Người nhấn mạnh đến các yêu cầu sau đây:
Có đạo đức cách mạng cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư, không tham ô, lãng phí, quan liêu, có ý thức làm chủ và tinh thần tập thể.
Có ý chí học hỏi, không ngừng vươn lên làm chủ những thành tựu văn hoá, khoa học - kỹ thuật, những hiểu biết mới của thời đại.
Có tinh thần tìm tòi, nghiên cứu, sáng tạo, nhạy bén với cái mới, biết vận dụng nó vào thực tế công tác để nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về con người và chiến lược trồng người là một hệ thống chặt chẽ, phong phú, vừa khoa học, vừa cách mạng, là một bộ phận hợp thành của tư tưởng triết học Hồ Chí Minh, một đóng góp quan trọng vào việc làm phong phú triết học về con người của chủ nghĩa Mác - Lênin.
Từ thực tiễn đấu tranh cách mạng cứu dân, cứu nước, tìm một con đường phát triển mới để canh tân đất nước, Hồ Chí Minh đã tìm đến nhiều học thuyết Đông - Tây, trên hết là chủ nghĩa Mác - Lênin, đã học hỏi, tiếp thu, dung hợp, tích hợp, hình thành cho mình một thế giới quan duy vật và phương pháp biện chứng macxít, tạo nền tảng triết học để xây đựng lý luận, đường lối và phương pháp cho cách mạng Việt Nam.
Triết học Hồ Chí Minh là triết học thực tiễn, biện chứng Hồ Chí Minh là biện chứng thực hành, nó được thể hiện và xuyên thấm trong toàn bộ cuộc đời, sự nghiệp và trước tác của Hồ Chí Minh. Từ những hoạt động thực tiễn phong phú ấy của Người, phân tích, hệ thống hoá, có thể rút ra tư tưởng và phương pháp triết học của Hồ Chí Minh. Đó là một việc làm công phu và lâu dài. Mấy nội dung cơ bản trong tư tưởng triết học Hồ Chí Minh được trình bày trên đây mới chỉ là những khái quát bước đầu, chắc chắn cần được bổ sung và hoàn chỉnh cùng với những thành tựu mới trên con đường lâu đài nghiên cứu tư tưởng triết học Hồ Chí Minh.
Nguồn: Tạp chí Triết học
Số lượt đọc: 15260 - Cập nhật lần cuối: 13/04/2008 09:05:37 AMhttp://chungta.com.vn/Desktop.aspx/ChungTa-SuyNgam/Suy-ngam/
y kien ban doc
Giáo dục tư tưởng Hồ Chí Minh trong trường học.
Anh Duẩn (19/06/2007 01:08:49 AM)
Chính vì "Triết học Hồ Chí Minh là triết học thực tiễn, biện chứng Hồ Chí Minh là biện chứng thực hành, nó được thể hiện và xuyên thấm trong toàn bộ cuộc đời, sự nghiệp và trước tác của Hồ Chí Minh." như nhận định của cuối bài. Giáo dục của chúng ta là giáo dục toàn dân, thống nhất chương trình trên toàn quốc.
Tôi thiết nghĩ, việc giảng dạy tư tưởng Hồ Chí Minh cũng nên sinh động hơn (với những câu chuyện lịch sử nhiều hơn chẳng hạn). Như thế, những người bình thường (không phải là chuyên gia) cũng sẽ nhớ hơn, hiểu sâu hơn....và quan trọng nhất là áp dụng vào thực tiễn được tốt hơn...!
Vẫn là vấn đề phương pháp nghiên cứu Di sản Tư tưởng Hồ Chí Minh
TS. Hồ Bá Thâm
Viện Nghiên cứu phát triển Tp. HCM
Không thể để cho nhận thức về chủ nghĩa Mác và tư tưởng HCM bị hiểu sai lạc, hiểu giản đơn, tôi xin có bài trao đổi tiếp sau khi có ý kiến phản hồi của bạn đọc Dân Việt và bạn Hoa (lần thứ 2). Tôi thấy hai bạn Dân Việt và bạn Hoa là người có hiểu biết nhưng có lẽ có vấn đề, như vấn đề đang bàn, tôi xin lỗi, là có thể thiếu thông tin, phiến diện, hoặc thích nêu vấn để để tranh luận, hoặc biện giả có chính kiến khác. Dù cần nhiều thời gian nhưng cũng hữu ích, nên và cần phải trao đổi lại.
Xem thêm:
• Trao đổi với bạn đọc "Di chúc Hồ Chí Minh với mục tiêu phát triển đất nước và các mô hình về XHCN"
• Di chúc Hồ Chí Minh với mục tiêu phát triển đất nước và các mô hình về CNXH
1- Phải chăng Lênin không đồng ý với lập trường của Ăngghen về con đường và mô hình CNXH?
Bạn Hoa cho rằng, “Cụ Lênin sinh sau Mác khá lâu, tán thành lý thuyết đấu tranh giai cấp của Mác (và Ăng ghen); và trong thời TBCN thì giai cấp công nhân sẽ bằng con đường bạo lực lật đổ nó để nắm chính quyền. Từ quen dùng cho đến nay là “cướp chính quyền” chả lẽ không nói lên điều gì? Nhưng cụ Lênin không tán thành lập trường của Ăng ghen sau khi Mác mất. Stalin đã thể hiện điều đó”.
Không thể nói chung chung “lập trường” như vậy. Lập trường của các nhà kinh điển xét về mặt triết học và chủ nghĩa cộng sản là nhất quán, chỉ có điều về phương pháp cách mạng và phương thức phát triển thì có thể rất khác nhau, tùy cơ ứng biến. Răng giai cấp công nhân ở các nước tư bàn khi có điều kiện thì “giành lấy chính quyền” (Tuyên ngôn của Đảng cộng sản), xây dựng CNXH nhưng những nước khác nhau thì biện pháp cũng phải “khác nhau rất nhiều”. Chính trong Tuyên ngôn của Đảng cộng sản, Mác và Ăng nghen đã nhất mạnh tinh thần đó và sau này Lênin hay Hồ Chí Minh đều như vậy.
Khi kẻ thù dùng bạo lực thì phía lực lượng cách mạng không thể trông chờ vào bầu cử dân chủ (như thời điểm cách mạng Tháng Mười Nga hay các cuộc cách mạng và kháng chiến ở VN trong thế kỷ 20).
Trường hợp Ăngghen nó về hình thức dân chủ bầu cử giành chính quyên ở Đức năm cuối những năm 90 của thế kỷ 19 là trường hợp cho phép hình thức ấy, Lênin chưa bao giờ phê phán và không đồng ý với Quốc tế Hai và nhất là quan niệm của Ăngghen về cách thúc giành chính quyền mà thực chất là Lênn phê phán “Quốc tế Hai rưỡi” (nhất là phê phán Causky và Bestanh) đã hữu khuynh khi tình thế thay đổi (CNTB đã tành CNĐQ, chuẩn bị gáy chiến tranh) và nhất là với trường hợp Nga. Lịch sử phân hóa trong phong trào CSQT và phong trào CNQT thì ai cũng biết, rất phức tạp, xin không nhắc lại ở đây.
Tất nhiên, có một số vấn đề quan trọng và cụ thể do hoàn cảnh lịch sử quy định thì giữa các nhà kinh điển có thể có ý kiến khác nhau cũng là bình thường. Chính Lênin khi nêu ra NEP đã tuyên bố quan niệm của chúng ta (ĐCS Liênxô lúc đó) về CNXH đã thay đổi căn bản. Và nếu liên hệ với ngày nay càng đúng. Nó có nguyên nhân nhân thức và nguyên nhân lịch sử của nó. Ta thấy Ăng nghen cuối đời cũng tự thấy những sai lầm của mình và của Mác về một só vấn đề của cách mạng vô sản mà các ông nêu ra trước đó, nhưng về nguyên tắc lý luận cơ bản và phương pháp luận của các công thì vẫn có giá trị phổ biến. Thậm chí có lúc các ông cho rằng cái còn lại (hay cái được cung cấp) ở chủ nghĩa Mác là phương pháp luận khoa học, biện chứng, duy vật thực tiễn.
Như vậy thì phương pháp luận của chủ nghĩa Mác cực kỳ mới và quan trọng, hơn nữa quý giá lắm thay!
Cho nên khi nói ở VN khái niệm “cướp chính quyền” là có tính lịch sử từ Cách mạng Tháng Tám, mà ai cũng biết, không nên xuyên tạc lịch sử. Hoặc không vì sai lầm trong mô hình CNXH thời chiến mà tỏ ra cay cú hay hằn học đối với CNXH hay Đảng cộng sản, như vẫn có người tỏ ra thông minh và không ngoan khi phán quyết những vấn đề lịch sử!?
2- Trung thành với chủ nghĩa Mác- Lênin là gì?
“Từ khi có Đảng tới nay, chưa bao giờ Đảng ta không khẳng định lòng trung thành vô hạn với chủ nghĩa Mác-Lênin vô địch. Và chưa có dấu hiệu gì về sự cho phép nghiên cứu trong diện hẹp cái “ngả thứ hai” của phong trào CS quốc tế hiện đang có những thành tựu rực rỡ, dẫu có nhắm mắt lại vẫn phải thấy. Chính vì vậy, nói về “ngả thứ hai”, dù đã rào đón, vẫn cần thận trọng”.
Đảng ta chưa bao giờ tách Mác và Ăngghen, hay Mác - Ăngghen và Lênnin ra làm hai phái. Nói Mác là có Angghen trong đó. Chúng ta nói chủ nghĩa Mác -Lênin là trong ý nghĩa thống nhất đó. Hơn nữa, chủ nghĩa Lênin vói những nội dung gần gũi trực tiếp vói cách mạng VN. Tất nhiên chúng ta thấy trên thế giới thì có xu hướng tách rời riêng hai phái/ đảng Mác- Ăng nghen và Mác –Lênin.
Cũng cần lưu ý là bạn Dân Việt khi nói về sáng tạo của Lênin, kể ra một số điểm nhưng lại quên điểm quan trọng nhất, nhất là trong bối vảnh ngày nay là sáng tạo NEP- Chính sách kinh tế mới nổi tiếng của Người. Có thể là dụng ý quên, hay không biết đến, hay cho là không quan trọng. Thật đáng tiếc.
Còn về CNXHDC thì gần đây vừa cho đăng bài Báo cáo khảo sát của chuyên gia Trung Quốc và trong nội bộ đã có nghiên cứu và xuất bản về CNXHDC ở Đức (tuy nhiên là có sự cẩn trọng cần thiết như có người đã khuyên bảo). Tuy nhiên đúng là có sự dè đặt nào đó. Nhưng xu hướng thực tế và tình hình nhận thức đã bắt đầu rất khác trước.
Cũng cần chú ý hoàn cảnh lịch sử, địa chính trị kinh tế của Thụy Điển, để không tuyệt đối hóa nó.
Trung thành với chủ nghĩa Mác là trung thành với phương pháp luận của chủ nghĩa của Mác-Ăngghen- Lênin, vận dụng nó để khám phá, sáng tạo và thực thi các nhiệm vụ lịch sử đã và đang đặt ra.
3- Phải chăng cụ Hồ chỉ nói về mục tiêu, chưa bao giờ đưa ra lý luận về CNXH?
Có người viết “Bái phục cụ Hồ chưa bao giờ đưa ra ý kiến chính thức (về lý luận) CNXH là gì, mà chỉ nói những mục tiêu cao cả mà cụ muốn dân VN được hưởng. Đó là nước ta độc lập, dân ta tự do, đồng bào no ấm, được học hành. Cụ không phê phán ai là "bọn cải lương". Tôi cũng muốn suy luận quan niệm của Cụ về CNXH lắm, nhưng suy không nổi. ”(hoanghuuhoa@gmail.com (chungta.com, 14/09/2009).
“Bác Hồ hầu như không nói về lý luận XHCN, mà chỉ đưa ra mục tiêu tốt đẹp (rồi bảo đó là XHCN; hoặc cũng chẳng nói rõ “đó là XHCN”). Trong Di chúc lại càng rõ. Cái chữ XHCN mà Bác dùng cho thanh niên không có nội hàm cụ thể nào hết về CNXH, trừ khi ta suy gần, ngẫm xa mà tán rộng ra. Nếu nói, với Bác Hồ, miễn là các mục tiêu tốt đẹp được thực hiện đầy đủ, còn biện pháp gì cũng được, kể cả biện pháp “tiến lên XHCN”. Đấy cũng chỉ là suy luận rồi gán cho Bác’ (chungta.com, ĐanVietanvietnam1945@yahoo.com (13/09/2009).
Nếu cho rằng, Hồ Chí Minh không đưa ra quan niệm hay lý luận về CNXH là một quan niệm không hiểu/ hoặc xuyên tạc, dỳ không dụng ý, về Hồ Chí Minh và tư tưởng của Người. Hồ Chí Minh đã lập luận về con đường và nội dung bao gồm mục tiêu, phương thức, động lực, bản chất và quá trình tiên lên CNXH. Chỉ có người không nghiên cứu có hệ thống, tức nghiên cứu qua loa, nhảy cóc, thiếu thông tin cần thiết, hoặc định kiến mới có quan niệm như trên đây. Ở chiều sâu lôgích các nhà kinh điển đã luận chứng đại thể về con đường và tính chất cũng như mục tiêu và gợi ý về mô hình phổ quát lý thuyết về CNXH.
Các ông cho rằng phải tùy tình hình từng nước và trình độ phát triển từng dân tộc mà có con đường và phương thức, mô hình, phương pháp tiến hành thích hợp. Và cùng với tinh thần ấy, ở cấp độ quan niệm, Hồ Chí Minh đã vạch ra những nét cụ thể hơn về con đường, mục tiêu và phương hướng tiên lên CNXH ở VN và nói rằng phải khác với mô hình Liên xô. Chính Hồ Chí Minh có nói rằng nếu VN ta tìm con đường, cách thức đi lên CNXH không hoàn toàn giống với các nước, nên “làm trái vó Liên Xô cũng là mácxít”. Tất nhiên mong muốn đó và thực tế diễn ra còn khoảng cách.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về CNXH và con đường đi lên CNXH ở nước ta là khá phong phú, toàn diện, từ yếu cấu nắm vững quy luật, những đặc điểm xuất phát, thực trạng đất nước, đến những mục tiêu, bản chất, cách thức, bước đi và biện pháp, nói chung và trên tất cả các lĩnh vực, kinh tế, xã hội, chính trị văn hóa, môi sinh, cá nhân và cộng đồng, con người và xã hội, cải tạo và xây dựng, kiến thiết và bảo vệ (xin phép không dẫn lại cụ thể ở đây). Cho nên thật là vũ đoán và phiến diện khi cho rằng, Hồ Chí Minh hầu chỉ nếu ra mục tiêu của CNXH/ hoặc không hẵn thế/ mà thôi.
Ngày nay các nhà nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh đã hệ thớng hóa quan niệm khá toàn diện tư tưởng Hồ Chí Minh về CNXH và con đường tiến lên CNXH ở nước ta (ở tầm lý luận) và hiện nay từ công cuộc đổi mới đảng ta đã có bước vận dụng và phát triển mới. (GS Song Thành trong cuốn Hồ Chí Minh- nhà tư tưởng lỗi lạc (Nxb.Lý luận chính trị, tr. 99-230) về vấn đề này). Trong công trình quy mô về tư tưởng HCM với cách nhà tư tưởng, nhà lý luận, có 3 chương 4, 5, 6 chú ý: Chương 4: Tư tưởng HCM về con đường cách mạnng VN : Đọc lập dân tộc gắn liền với CNXH; chương 5:Quan niệm của Hồ Chí Minh về bản chất, mục tiêu và động lực của CNXH; chương 6 Tư tưởng HCM về con đường quá độ lên CNXH ở VN.(Bạn đọc có thể tham khảo và tra cứu với tư liệu về Hồ Chí Minh).
Cho rằng “Bác Hồ hầu như không nói về lý luận XHCN”, “cụ Hồ chưa bao giờ đưa ra ý kiến chính thức (về lý luận) CNXH là gì, mà chỉ nói những mục tiêu cao cả mà cụ muốn dân VN được hưởng” là một cách không thừa nhận tư tưởng cốt lõi của Hồ Chí Minh và Hồ Chí Minh với tư cách nhà tư tưởng. Và hóa ra khi Hồ Chí Minh chỉ nói về mục tiêu ‘mong muốn” (cách nói bình dân của Cụ Hồ) cho nhân dân VN và không luận lý gì về con đường, điều kiện, bản chất, động lực, phương thức… thì tư tưởng về mục tiêu ấy là không tưởng và Hồ Chí Minh là tư tưởng CNXH không tưởng!?
Trong khi đó tư tưởng Hồ Chí Minh về CNXH là mang tính cụ thể và hiện thực cao, dù rằng không phải mọi điều ở Hồ Chí Minh đều tuyệt đích và tuyệt đối đúng cho mọi thời kỳ lịch sử.
Nhưng nhận xét sau đây của một bạn đọc mới từ Mỹ mới gửi cho tôi là rất đáng suy ngẫm (29-9-2009): “Tôi thấy rằng Hồ Chí Minh có nhận thức, hình dung về CNXH, Dân chủ, Tự do, Bình Đẳng, Bác Ái rất cụ thể. Và đó là những ý tưởng có tính khả thi… Các nhà lãnh đạo và những nhà lý luận sau này ở VN không có được tri thức và tư duy như Hồ Chí Minh…. Nguyên nhân là Hồ Chí Minh đã có những trải nghiệm chân thực trong những năm tháng bôn ba hải ngoại. Hồ Chí Minh đã cảm nhận được sâu sắc thế nào là chế độ phong kiến, thế nào là chế độ tư bản, thế nào là đế quốc, thế nào là thuộc địa và nô lệ, văn hoá phương Đông với Nhân -Trí - Dũng - Lễ Nghĩa... Và văn hoá phương Tây với Dân chủ, Tự do, Bình đẳng, Bác ái....”
4- Phải chăng không có quan niệm về CNXH thời chiến?
Có người quan niệm: “Không có cái quan niệm XHCN "thời chiến". Không có kiểu XHCN "quan liêu, bao cấp". Không thể ghép hai nội hàm đối lập vào một cái rọ”.
Mời ban hãy đọc Tuyên ngôn của ĐCS của Mác và Ăng ghen khi các ông nói về CNXH phong kiến, CNXH tiểu tư sản, CNXH không tưởng, CNXH tư sản. Nghĩa là không phải CNXH văn minh, khoa học kiểu của chủ nghĩa Mác và CNXH qnan liêu bao cấp cũng là loại như vậy. Sự ghép nghĩa và từ này là hàm ý phản đề mà ngay cả Lênin cũng dùng Đảng ta cũng dùng khái niệm theo tinh thần ấy khi nói về các loại CNXH ấy (nguyên văn Lênin gọi là CNCS thời chiến)? Vấn đề là loại CNXH nào, xét theo mô hình và tính chất lịcḥc sử của nó? Cần phân biệt CNXH phản CNXH và mô hình đa dạng của CNXH thật sự.
5. Cụ Hồ “không phê phán ai là "bọn cải lương".
Cụ Hồ đã có không ít nhất một lần nói về việc chống chủ nghĩa hữu khuynh và tả khuynh trong qua trình cách mạng VN. Tất nhiên hào cảnh lúc đó chủ yếu là tập trung cho nhiệm vụ kháng chiến nên Bác Hồ ít đề cập tói các vấn đề mang tính phê phán hay tán thành trực tiếp các xu hướng trong phong trào cộng sản/ công nhân quốc tế. Chúng ta cũng biết tính hình quốc tế trong nội bộ phong trài CS/CNQT phức tạp như thế nào và chúng ta cần đoàn tế quốc tế như thế nào, ảnh hưởng của Liên xô và Trung Quốc như thế nào.
Hồ Chí Minh chỉ tập trung phê phán chủ nghĩa đế quôc, chủ nghĩa thực dân và tự phê phán các tệ nạn, khuyết điểm trong bản thân cán bộ và tổ chức của Đảng cộng sản Việt Nam. Người nói một đảng che dấu khuyết điểm sai lầm là một đảng hỏng và đảng mà giám nhận khuuyết dđểm sai lầm, giám sữa chữa nó là một đảng tiến bộ, lành mạnh.
Như vậy ở đây minh triết Hồ Chí Minh đã có hiệu quả.
Những hạn chế lịch sử trong tư tưởng về CNXH và của Đảng ta, nhất là mô hình phát triển, hay một số hình thức cụ thể (thời tập trung bao cấp 1960-1969) là khó tránh khỏi.
Nếu Hồ Chí Minh còn sống đến thời đổi mới thì chắng Người cũng nhận về minh phần trách nhiệm quan trọng của những sai lầm tả khuynh và duy ý chí của mô hình CNXH thời tập trung quan liêu bao cấp. Hồ Chí Minh cũng đã hành xử như vậy khi có sai lầm trong cải cách ruộng điất.
Cho nên không phải là “ về nguyên tắc thì tranh do Picasso vẽ ra “cái nào cũng tuyệt tác”. Đời sau chỉ có việc tán dương. Và tận dụng để chứng minh ý tưởng riêng.”. Trong thời đổi mới, đảng ta đã vượt lên chính mình và phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh như thế nào, có lẽ không cần nói nhiều ở đây. Và trong thử thách hiện nay, thế hệ hiện nay cũng sẽ như vậy.
6- Sự khác nhau giữa hai chế độ và vấn đề tên nước.
Bạn Dân Việt viết: “Khác nhau giữa hai chế độ chủ yếu là năng suất. Với năng suất của VN (sau 1975 đang bị nguy cơ tụt hậu đe doạ) mà đã dán cái nhãn XHCN lên tên nước thì quả là không ổn. Nó nói lên một tâm thức nào đó của các nhà lãnh đạo của đất nước ta. Cũng tâm thức này, đưa đến cấp tốc đổi tên Đảng, tên Đoàn, tên Đội. Nay thì những đội viên thuở ấy đã có người về hưu”.
Khi nước ta chưa là một nước phát triển thì chưa thể có cơ sở vật chất của CNXH thật sự và năng xuất lao động chắc rằng là cìn thấp hon nhiều nước TBCN. Nhưng nươc ta lựa chọn xu hướng đi dần lên CNXH thông qua nhiều nấc trung gian và trình độ phát triển, nhất là qua hình thức CNTB nhà nước kiểu mới, như Lênin đã chỉ ra hay hình thái chế độ DCND mà phát triển đã chỉ dẫn, hoặc những phương hướng, phương thức và bước đi mà thời kỳ Đổi mới, Đảng ta đã vạch ra.
Tuy nhiên trước đổi mới chúng ta đã sai lầm đốt cháy giai đoạn (cả nhận thức, tâm thức và hành động) mà đại hội 6 của Đảng đã tự phê phán. Sau năm 1975 có 2 khả năng, hoặc giữ nguyên tên đảng, tên nước…, nhưng vẫn là phát triển đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Định hướng xã hội chủ nghĩa, tức là CNXH thật sự còn ở phía trước. Không thể nóng vội và ngộ nhận. Nhưng những mầm mống của nó cũng đang hình thành ờ nước ta là thực tế.
Tuy nhiên, khả năng thứ hai là đổi tên Đảng, tên nước như gọi hiện nay, sau năm 1975 như nhận thức hồi đó (cứng, “đỏ quá”- chữ của cụ Hồ). Nhưng tên như hiện nay nhu Lênin trước đây cũng giải thích là nhằm vào định hướng phát triển, mục tiêu phát triển và giới hạn ở nước ngoặt chọn con đường phi TBCN, nên nó vẫn có cái lý của nó. Tên nước hiện nay đã vậy, có cần trở lại tên cũ không? Đổi lại sẽ trở thành “vấn đề chính trị”(dễ bị lợi dụng) có cần thiết không? Dù tên cũ là rất hay, nhưng tôi nghĩ là không cần thiết phải trở lại tên ấy. Vấn đề là làm rõ nội dung phát triển xã hội hiện nay như tinh thần đổi mới đã làm sáng tỏ. Và nhớ lại lời nhận xét và củng là cảnh báo của Hồ Chí Minh: khi nào tả khuynh hay hữu khuynh thì cách mạng đều thất bại.
Sai lầm cơ bản của các nước kém phát triển chọn con đường phát triển XHCN thường là tả khuynh. Hiện nay ở nước ta cơ bản đã khắc phục được khuyết điểm ấy, nhưng cũng cần đề phòng, chứ không chỉ là đề phòng hữu khuynh.
7- Vẫn là từ cách nhìn, phương pháp luận và có tâm học hỏi như thế nào?
Như đã trình bày, tóm lại, các tác giả phản biện lại qua những nội dung nói trên có vể thông thái về lịch sử và lý luận nhưng hình như qua ý kiến trình bày vẫn chúng tỏ thiếu phương pháp biện chứng của chủ nghĩa Mác và tư tưởng Hồ Chí Minh khi nghiên cứu di sản và lịch sử tư tưởng, trên một số vấn đề tỏ ra không hiểu hay cố tình không hiểu hoặc “giả đò lơ mơ” như vậy để khơi dậy tư duy tích cực của bạn đọc chăng?
Quả thật tôi nghi ngờ về sự nghiên cứu di sản của Hồ Chí Minh và di sản Ma- Ăngghen, Lênin ở các vị phản biện nói trên! Nhưng tính thẳng thắn và tranh luận ấy cũng hữu ích cho các đầu ích biết suy nghĩ, nhưng nếu đầu óc tin một chiều, thiếu suy nghĩ, hay không có điều kiện nghiên cứu sâu, toàn diện các di sản ấy thì là tai hại.
Vấn đề không phải suy luận chủ quan mà phải đặt các tư tưởng trong hệ thống của nó và quá trình phát triển của nó, chứ không thể tách ra từng cấu chữ rồi bảo “Cái chữ XHCN mà Bác dùng cho thanh niên không có nội hàm cụ thể nào hết về CNXH, trừ khi ta suy gần, ngẫm xa mà tán rộng ra. Nếu nói, với Bác Hồ, miễn là các mục tiêu tốt đẹp được thực hiện đầy đủ, còn biện pháp gì cũng được, kể cả biện pháp “tiến lên XHCN”. Đấy cũng chỉ là suy luận rồi gán cho Bác. Văn Bác rất bình dân, người trình độ thấp cũng hiểu. Vậy chớ suy luận nhiều quá”. Vấn đề là duy luận có cơ sở̉ hay không. Còn nếu quả thật chỉ hiểu như vậy thì là một quan niệm chỉ nhìn cận cảnh.
Không thấy tư tưởng HCM nói chung và tư tưởng về CNXH nói riêng, ở chiều sâu của nó là có tinh phương pháp luận, là hệ thống, mnag lý luận sâu sắc chứ không chỉ là các hoạt động chỉ đạo thực tế sẽ không thấy giá trị nền tảng tư tưởng, giá trị thời đại của tư tưởng Hồ Chí Minh (mà ngay trong Di chúc tuy không nói lên tất cả nhưng hết sức cơ bản)
Tự do tư tưởng và tự do tranh luận, nên tôi thật sự cảm ơn ý kiến trung thực, thẳng thắn, tâm huyết của các biện giả đã nêu lên một số vấn đề để tranh luận làm sáng tỏ thêm!
Vấn đề vẫn là phương pháp và cái tâm của chúng ta. Muốn triệt để và đánh giá đúng các sự vật, hiện tượng (ở đây là tư tưởng Hồ Chí Minh về CNXH và con đường tiến lên CNXH ở VN) thì cả Các Mác và Hồ Chí Minh đều căn dặn là phải nghiên cứu tận gốc rễ của vấn đề.
Số lượt đọc: 538 - Cập nhật lần cuối: 09/10/2009 05:13:37 PM
Về trang trước Bản in Gửi email Về đầu trang
Trao đổi/Nhận xét
Tổng số: 11
Dân chủ XHCN khác hẳn dân chủ tư sản.
Vân Thành - Email: nguyenvanthanh1968@gmail.com (24/10/2009 02:39:53 PM)
Nhiều bạn thắc mắc đề nghị TS Thâm giải thích "dân chủ" và "dân chủ XHCN" khác nhau thế nào.
Tôi đọc bài của GS Tương Lai đọc trước đại hội Mặt Trận TQ, vị GS này cũng nêu thức mắc như vậy. Đến vị GS nguyên viện trưởng viện Xã Hội Học mà còn không hiểu sự khác nhau giữa hai khái niệm đó thì còn ai hiểu nổi nữa?
Riêng tôi, từ nhỏ tới hôm nay, tôi hiểu lơ mơ rằng chúng ta dùng tính từ XHCN để phân biệt với TBCN. Một đằng cực kỳ lạc hậu, giả dối, phản động; còn một đằng hết sức tiến bộ, tốt đẹp.
Chúng ta đã gắn tính từ XHCN với pháp quyền, thị trường, nhà trường, con người, dân chủ, hiến pháp... Tất cả, đều có thể thêm cái đuôi XHCN phía sau để nói lên sự tốt đẹp, sự "hơn hẳn".
Tôi chỉ hiểu đến thế. Đủ thoả mãn rồi. Nhưng nếu được TS Thâm giải thích thêm cũng tốt.
Đề nghị TS phát biểu tiếp
nguyễn văn việt - Email: nguyenvanviet1978@gmail.com (22/10/2009 05:08:27 PM)
Bài của TS ban đầu chỉ muốn trả lời vài ba người đã góp ý; không ngờ được nhiều ý kiến tiếp tục bàn thêm rất rộng. Dù như vậy, vẫn đem lại nhiều bổ ích và gợi ra rất nhiều vấn đề về lý luận trong bối cảnh của VN hiện nay trước xu thế hội nhập và toàn cầu hoá.
Kính đề nghị Ban Biên Tập liên hệ với TS. HBThâm phát biểu tiếp.
Mong chờ nhiều.
Đừng đưa vấn đề đi quá xa
Thăng Long - Email: thanglong1010@gmail.com (17/10/2009 10:41:26 AM)
Bàn luận gì cũng chỉ nên trong phạm vi bài viết của tác giả thôi. Nhiều vị đã làm đúng như vậy; nhưng cũng có nhiều vị nêu cả ngững vấn đề (tuy thời sự, đang là trăn trở của nhiều người) nhưng ra ngoài chủ đề bài viết. Tuy nó nói lên sự quan tâm rất đáng trân trọng về những vấn đề của đất nước, nhưng cứ cái đà này sẽ dẫn cuộc tháo luận đi quá xa. Và tôi nghĩ rằng TS Thâm không đủ quyền phát biểu, dù năng lực có thừa.
Liệu có thể hy vọng "chungta" sẽ trở thành một diễn đàn tự do và lành mạnh? Từ xưa, tôi chỉ coi "chungta" là kho lưu trữ những bài viết hay lấy từ nơi khác. Liệu từ nay có thể khác đi?
Tả khuynh là đương nhiên
Thai An - Email: docgia2009@gmail.com (14/10/2009 07:24:08 AM)
Một câu trong bài của TS Thâm:
"Sai lầm cơ bản của các nước kém phát triển chọn con đường phát triển XHCN thường là tả khuynh. Hiện nay ở nước ta cơ bản đã khắc phục được khuyết điểm ấy, nhưng cũng cần đề phòng, chứ không chỉ là đề phòng hữu khuynh".
Lý luận Mác và nhất là Lênin khi du nhập vào các nước nông nghiệp lạc hâu không bao giờ tránh khỏi tả khuynh. Sốt ruột mà. Thượng tầng của xã hội nông nghiệp chỉ có thể là phong kiến chuyên trị. Dù đảng cầm quyền ban đầu có thiện chí đến đâu, dù được những vĩ nhân như Bác Hồ lãnh đạo, thì chỉ sau ít lâu cũng bị tư tưởng nông dân biến nó thành tả khuynh, phong kiến. Ngay cả năm 2009 này, Bác đâu có muốn dân tô tượng, đặt lên chùa như một vị bồ tát? Thế mà họ cứ làm. Đảng cũng không thể cản được lòng dân.
Có một bài viết nói rằng nông dân có nhu cầu tinh thần tạo ra các vị thánh để thờ phụng. Do vậy các vị lãnh tụ của đảng có công giành độc lập đều bị tư tưởng nông dân biến thành thánh (ướp xác, xây lăng). Lăng tẩm hiện đại chỉ xuất hiện ở các nước XHCN "nông dân" là do vậy. Tôi khâm phục Bác Hồ khi Người viết trong di chúc chuyện "hoả táng". Nhưng cha tôi bảo, hồi đó nguyện vọng toàn dân không thể để cho Đảng làm theo điều Bác muốn.
Tôi cũng đồng ý xin TS "tha" cho Bác chuyện lý luận về CNXH, dù cố bới tìm ta có thể có một số câu chữ nào đó. Thời Bác sống, CNXH ở Liên Xô chưa bộc lộ những bất cập và còn là tấm gương để sau năm 1975 chúng ta cấp tốc noi theo.
Những điều đã sáng rõ, sao còn thắc mắc?
Xuân Sơn - Email: xuansondang@gmail.com (13/10/2009 11:58:52 AM)
Tôi đọc, nhưng chưa bao giờ có ý kiến, nhưng lần này thấy hay quá vì tác giả và độc giả toàn nêu ngững vấn đề “gốc” mà những ai suy nghĩ về vận mệnh của đất nước đều quan tâm. Xin cảm ơn TS Bá Thâm và báo “Chúng Ta” (cái tên rất hay). Điều lạ là nhiều bạn cứ thắc mắc vào những vấn đề đã sáng tỏ như ban ngày. Ý kiến vắn tắt của tôi như sau:
1) Dân chủ XHCN có thể nói gấp triệu lần dân chủ tư sản. Cần khẳng định điều đó. Chế độ tư bản chỉ đem lại quyền dân chủ cho thiểu số thống trị (chiếm tỷ lệ quá nhỏ trong dân), còn chế độ XHCN đem lại quyền dân chủ cho toàn dân như chúng ta đang thấy từ 1945 đến nay. Dân VN có quyền tự do ứng cử, nhưng sau khi cân nhắc thấy rằng chỉ các đồng chí đảng viên là tài đức ven toàn, nên nhiều người xin tự rút. Do vậy dân đã bầu cho những người do đảng giới thiệu. Họ rất xứng đáng. Hiện nay, các vị lãnh đạo và các văn bản quan trọng không bao giờ nói “dân chủ” (trống không) mà phải nhấn mạnh “dân chủ XHCN” là với ý nghĩa như vậy. Chân lý đơn giản như vậy, sao còn phải thắc mắc?
2) Tên gọi “chủ nghĩa Mác-Lênin” được dùng từ khi đảng ta chưa thành lập, nay đã thành nếp. Sao còn phải làm rõ nội hàm? Mác và Ănghen là đồng tác giả của chủ nghĩa Mác, nghĩa là Ănghen không phát triển chủ nghĩa Mác lên tầm cao mới. Mà đó là vai trò của Lênin. Một chủ nghĩa mang tên hai lãnh tụ đã là nhiều, chả lẽ còn thêm tên Ănghen nữa? Thế thì phải thêm cả tên Stalin vì cụ này đã đặt ra cái tên “chủ nghĩa Mác-Lênin”. Dài quá. Các bạn thấy chưa?
3) Bác Hồ của chúng ta sau 6 lần tranh thủ sự ủng hộ của tổng thống Mỹ nhưng không đạt kết quả, Bác nhất quyết theo chủ nghĩa Mác-Lênin, và chọn con đường tiến lên CNXH cho đất nước ta. Dẫu sao, công lao thực tế của Bác là giành độc lập cho dân tộc. Còn chuyện xây dựng CNXH chỉ thật sự bắt đầu sau năm 1975 do lớp học trò trung thành của Người tiếp tục sự nghiệp. Vấn đề đơn giản và sáng rõ như vậy, sao còn phải thắc mắc? Nếu cái tâm của chúng ta trong sáng, đâu có những thắc mắc loại này?
4) Xin nhớ rằng phe XHCN đã thật sự hình thành, trải dài từ Á sang Âu, tới cả Mỹ latinh với mấy tỷ người dốc tâm tin tưởng và một lòng bảo vệ, vun đắp. Do vậy, nói thời đại ngày nay là thời đại quá độ từ TBCN lên XHCN trên phạm vi toàn thế giới, đâu có gì quá đáng? Mong các bạn giữ vững lòng tin.
5) Có người nói đạo đức cao nhất khi phát biểu là nói đúng sự thật. Họ bảo: Ai cố ý nói nửa sự thật là có ý đồ lừa bịp. Tôi nghĩ khác. Nếu nói một sự thật mà có hại cho cách mạng và đường lối, chủ trương, để kẻ thù lợi dụng thì chỉ có hại. Vấn đề là cái tâm (như TS Hồ Bá Thám đã viết). Có những sự thật cần tạm thời phải che dấu, nhưng không phải là che dấu mãi. Thế là đủ.
Quan trọng nhất vẫn là cái tâm với cách mạng, với Đảng, với Bác.
Xin TS giải thích thêm
Van Nguyen - Email: dovannguyen@gmail.com (12/10/2009 04:35:11 PM)
Tôi đã đọc bài của TS Tham, cac bai lien quan, cac ý kiến phát biểu. Chúc mừng tác giả bài viết công phu và tạo được nhiều phản hồi của bạn đọc. Dưới đây là những điều tôi muốn được làm rõ thêm. Mong TS Thâm hoặc Toà Báo mới các nhà lý luận viết tiếp.
1) Có người bảo kinh tế thị trường định hưóng XHCN là thành tựu về lý luận của chúng ta, nhưng một hội nghị rất gần đây lại cho rằng nó không rõ nghĩa.
2) Tôi cũng có thắc mắc như một bạn: Dân chủ phương đông và phương tây có gì khác về nội hàm? (trong chungta.com có bài nói bác Hồ không phân biệt). Dân chủ (nói chung) và dân chủ XHCN khác nhau thế nào và nó thể hiện ở nước ta ra sao? Trình độ như tôi, chỉ thấy dân Mỹ bầu một tổng thống da đen thì Mỹ dân chủ lắm rồi.
3) Tôi đã dùng đường hyperbol với 2 số đo biết trước (chế độ CS mông muội = triệu năm, và chế độ phong kiến+ nô lệ = trăm ngàn năm) để suy ra thời gian tồn tại của chế độ tư bản thì thấy nó dài quá. Nó mới trải 500 năm và nay đang ở thời kỳ cao trào nhất. Vậy nói: Thời đại chúng ta là thời đại "quá độ" từ TBCN sang XHCN trên phạm vi toàn cầu (như các thấy chính trị giảng cho tôi cách đây 15 năm) có hợp lý không? Nhận định hôm nay có gì khác trước không?
4) Tôi không tin rằng 100% dân ta tán thành CNXH, nhưng tôi nghĩ rằng nếu đa số tán thành nó thì thiểu số vẫn phải phục tùng (ví dụ, bằng trưng cầu dân ý). Nghĩ thế có gì sai không?
Các nhà lãnh đạo Nông Đức Mạnh và Nguyễn Minh Triết đều nói "tôn trọng khác biệt". Vậy "khác biệt" chính trị đến mức nào thì vẫn được tôn trọng?
5) Tôi nghĩ rằng chức năng muôn đời của Báo Chí là thông tin đúng và nhanh. Tôi rất mong được biết minh bạch thế nào là "lề phải". Trong Asian có nước nào nêu "lề phải" (hay cái gì tương tự) không?
Kính chúc TS Thâm sức khoẻ!
TS đã trả lời "từng điểm một"
Nguyen Q Hoi - Email: quoc_hoi_nguyen@yahoo.com (12/10/2009 07:09:02 AM)
Bài của TS có 7 phần.
TS đã trả lời “từng điểm một” đối với một số ý kiến tản mạn (và dường như ngẫu hứng) của vài bạn đọc. Đáng phục lắm về trách nhiệm và sự kiên nhẫn.
Tôi cũng xin phép phát biểu vắn tắt nhất, những gì nổi cộm nhất, trong suy nghĩ của tôi, lần lượt vào 7 điểm trong bài của TS.
Nếu có điều kiện để đọc kỹ, đọc chi tiết, các công trình lý luận của các nhà kinh điển (như TS) thì tốt quá rồi; và như vậy mới đủ tầm để tranh luận “từng điểm một”. Nhưng sẽ dễ dẫn đến tranh luận sa đà, vun vặt. Cũng may, lịch sử đã lùi đủ xa để những người bình thường có thể có cái nhìn tổng quát về sự diễn biến của các sự kiện lớn, qua đó mà nhận ra nét lớn tổng quát của vấn đề.
Phần 1. - Phải chăng Lênin không đồng ý với lập trường của Ăngghen về con đường và mô hình CNXH?
Lênin không bao giờ dại dột công khai nói hay viết câu nào phản đối hay bất đồng với Ănghen. Có điều, Lênin chủ trương cướp chính quyền và xây dựng XHCN ở một nước phong kiến, nông nô (tư bản Nga còn quá non trẻ). Phải chăng, đó là cốt lõi của chủ nghĩa Lênin? Không ai biết mô hình CNXH (trên thực tế) của Lênin ra sao, mặc dù ông có NEP. Ông mất sớm quá.
Phần 2. Trung thành với chủ nghĩa Mác- Lênin là gì? TS hơi dễ dãi khi quen miệng nói “chủ nghĩa Mác-Lênin”. Mác và Ănghen tâm đầu ý hợp (kể cả khi nhận ra sai lầm) và là đồng tác giả sáng tạo một chủ nghĩa: đến nay ta thấy được công lao và những hạn chế (do thời đại) của 2 vị. Còn Lênin ghép vào đây thì phải làm cho rõ nội hàm của một chủ nghĩa mới.
Phần 3. Phải chăng cụ Hồ chỉ nói về mục tiêu, chưa bao giờ đưa ra lý luận về CNXH? Sinh thời bác Hồ, chúng ta chưa làm xong cách mạng dân tộc (phải tập trung nỗ lực vào nhiệm vụ này). Do vậy, nếu có nói gì, làm gì, về CNXH thì cũng ngước trông lên tấm gương Liên Xô. Có thể “lý luận” gì khác? Xin để Bác vô can với cái CNXH kiểu trại lính của cụ Stalin.
Phần 4. Phải chăng không có quan niệm về CNXH thời chiến? Trong tài liệu, văn kiện quả là có cụm từ “CNXH thời chiến”, thậm chí có cả “CNCS thời chiến”. Kể cả việc gán cho nó một khái niệm. Trên thực tế, “bố” ai có thể xây dựng CNXH (đúng nghĩa) trong thời chiến? Trong Đại chiến 2, Liên Xô cũng phái tạm ngừng xây dựng CNXH. Tranh luận chuyện này cũng thú vị đấy, nhưng khá vụn vặt trước những cái lớn đang sừng sững trước mặt chúng ta.
Phần 5. Cụ Hồ “không phê phán ai là "bọn cải lương". Bắc Âu chính là “bọn” cải lương điển hình vì “chúng” tôn thờ Berstein. “Chúng” bị phê phán dữ. Hồng phúc cho dân VN: Bác không vào hùa phê phán “bọn” này (nhưng vài nhà lý luận của ta thì có). Nếu Bác chúng ta viết dăm bảy bài xỉ vả “bọn chúng” thì nay dân ta phải ngượng.
Phần 6. Sự khác nhau giữa hai chế độ và vấn đề tên nước. Tầm nhìn chưa xa, cứ tưởng chế độ XHCN trại lính ở Liên Xô là thành trì vĩnh viễn, nên hăng hái “tiến thẳng” lên cái CNXH đó. Trót bước dấn nên bị sa lầy. Phải cố rút chân lên, nhưng không thể quay lại tên đảng tên nước như trước được nữa. Vấn đề của lịch sử, đành để các thế hệ sau phê phán chúng ta.
Phần 7. Vẫn là từ cách nhìn, phương pháp luận và có tâm học hỏi như thế nào? Phương pháp “trời” gì cũng cần nói rõ sự thật, nói đúng sự thật, nhìn thẳng vào sự thật, lấy thực tiễn kiểm nghiệm mọi lý luận. Cụ Mác cũng nói theo các bậc tiền bối của cụ như vậy.
Trang: 1/2
http://chungta.com.vn/Desktop.aspx/ChungTa-SuyNgam/Suy-ngam/Van_la_phuong_phap_nghien_cuu_Di_san_HCM/
Đổi mới - linh hồn của tư tưởng Hồ Chí Minh
Nguyễn Huy
Tạp chí Triết học
Với chủ trương đổi mới, Đại hội lần thứ VI của Đảng ta đã có cống hiến to lớn, mang ý nghĩa lịch sử đối với Đảng, với dân, với nước. Đại hội tuyên bố: "Đối với nước ta, đổi mới đang là yêu cầu bức thiết của sự nghiệp cách mạng, là vấn đề có ý nghĩa sống còn".
Đây quả là những chữ vàng sẽ mãi mãi khắc sâu trong tâm khảm của mỗi người dân Việt Nam. Thực tế cho thấy, mỗi khi Đảng ta trở về với tư tưởng Hồ Chí Minh trong những hoàn cảnh cách mạng gặp khó khăn, đất nước lại như từ chỗ tối bước sang chỗ sáng, từ ngõ cụt bước ra con đường lớn rộng thênh thang. Và công lao bất hủ của Đại hội VI là đã sáng suốt trở về với tư tưởng đổi mới của Hồ Chí Minh, đề xướng chủ trương đổi mới để Đảng ta lãnh đạo toàn Đảng, toàn dân và toàn quân đưa đất nước thoát khỏi tình trạng trì trệ, bế tắc và khủng hoảng kinh tế - xã hội đã xuất hiện từ cuối những năm 70, ngay sau khi tiến hành cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa theo nếp cũ, bằng những biện pháp hành chính, mệnh lệnh, chủ quan duy ý chí nhằm thực hiện việc quá độ trực tiếp lên CHXH trên phạm vi cả nước.
Nhìn vào quá trình hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh, chúng ta sẽ thấy rất rõ đó là một quá trình đổi mới liên tục trong nhận thức tư tưởng, cũng như trong hoạt động thực tiễn của Người. Có thể nói, Hồ Chí Minh là con người đổi mới, là một người đổi mới bẩm sinh, một thiên tài đổi mới. Ngay từ năm 1927, trong Đường cách mệnh, Người đã viết: "Cách mệnh là phá cái cũ đổi ra cái mới, phá cái xấu đổi ra cái tất". Danh từ "đổi mới" là danh từ của Hồ Chí Minh, là danh từ mà Người đã nêu ra từ năm 1949 trong bài Dân vận bất hủ: "Công việc đổi mới, xây dựng là trách nhiệm của dân". Bốn năm sau, trong bài nói chuyện trong buổi khai mạc lớp chỉnh huấn cán bộ Đảng, dân, chính ở cơ quan trung ương, ngày 6/2/1953, Người đã đưa ra luận điểm bất diệt:
“Xã hội bây giờ ngày mót phát triển. Tư tưởng hành động cũng phát triển. Nên cứ giữ lấy cái kẹp giấy cũ không thay đổi là không đi đến đâu cả” (chúng tôi nhấn mạnh - N.H).
Và, nhiệm vụ đổi mới căn bản và toàn diện, "chống lại những gì cũ kỹ, hư hỏng, để tạo ra những cái mới mẻ tốt tươi" là nhiệm vụ mà Hồ Chí Minh đã xác định trong Di chúc của Người. Có thể nói, đổi mới chính là linh hồn của tư tưởng Hồ Chí Minh. Kết luận này được rút ra từ những sự kiện lịch sử.
Ngay từ lúc mới 13 tuổi, khi lần đầu được tiếp xúc với những từ Tự do - Bình đẳng - Bác ái trong tiếng Pháp, Người nảy ra ý nghĩ mới lạ, ý nghĩ mà lịch sử về sau đã chứng minh tính chất phi thường của nó - "muốn làm quen với nền văn minh Pháp, muốn tìm xem những gì ẩn giấu đằng sau những từ ấy". Ý nghĩ này thể hiện tính ham hiểu biết, muốn tìm hiểu sự vật đến nơi đến chốn của Hồ Chí Minh. Đến khi 15 tuổi, Người đã nuôi chí đánh đuổi thực dân Pháp, giải phóng đồng bào. Người tham gia công tác bí mật, làm liên lạc. Người khâm phục những nhà yêu nước tiền bối Phan Đình Phùng, Hoàng Hoa Thám, Phan Chu Trinh và Phan Bội Châu, nhưng thấy rằng phải có cách làm khác với cách làm của các cụ. Trong khi các trí thức và thanh niên có tinh thần yêu nước đua nhau theo phái Đông du sang Nhật thì Người lại chọn con đường sang nước Pháp và các nước khác để xem họ làm như thế nào rồi trở về giúp đồng bào.
Trước khi đi theo Quốc tế cộng sản, Người chưa biết chiến lược, sách lược là gì, không rõ CHXH và chủ nghĩa cộng sản khác nhau thế nào, cũng chưa đọc một tác phẩm nào của Lênin, vậy mà khi cần phải có quyết định trong việc lựa chọn giữa Quốc tế II và Quốc tế III, Người đã nhạy bén chỉ dựa vào một tiêu chí duy nhất là Quốc tế nào ủng hộ các dân tộc thuộc địa, để đưa ra quyết định đúng đắn.
Trong khi chủ nghĩa Mác - Lênin và Quốc tế cộng sản đặc biệt nhấn mạnh đấu tranh giai cấp chống địa chủ, tư bản và coi việc chống chủ nghĩa xét lại, chủ nghĩa cải lương, chủ nghĩa dân tộc là nhiệm vụ hàng đầu, trong khi Quốc tế cộng sản có quan điểm cho rằng công cuộc giải phóng thuộc địa chỉ có thể thực hiện sau khi giai cấp vô sản ở chính quốc giành thắng lợi trong cách mạng vô sản, thì Người đã không như thường lệ, chỉ giản đơn phụ họa và chứng minh cho những quan điểm đó, mà đã khảng khái và dũng cảm nêu lên những quan điểm mới, khác hẳn. Trong Báo cáo về Bắc Kỳ, Trung Kỳ và Nam Kỳ, Người đã đưa ra chủ trương tiến hành khởi nghĩa vũ trang ở các nước Đông Dương. Ở đây, một là, Hồ Chí Minh đã xác định rõ con đường đấu tranh vũ trang mang tính quần chúng để giải phóng dân tộc, chứ không chờ đến sau khi "giai cấp vô sản giành được thắng lợi ở các nước tư bản tiên tiến" như Tuyên ngôn thành lập của Quốc tế cộng sản năm 1919 và Nghị quyết Đại hội lần thứ VI của Quốc tế cộng sản về sau (1928) đã xác định. Hai là, cuộc khởi nghĩa vũ trang có thể nổ ra trùng hợp với cuộc cách mạng vô sản Pháp, chứ không phải đợi sau khi cuộc cách mạng vô sản Pháp thắng lợi rồi mới tiến hành. Đây là tư duy đổi mới bước đầu của Hồ Chí Minh về cách mạng giải phóng dân tộc. Và, như chúng ta đều biết, về sau, khi đã cân nhắc, xem xét kỹ lưỡng mọi mặt, Hồ Chí Minh đã đạt đến sự thăng hoa trong tư tưởng: cách mạng giải phóng dân tộc có thể thành công trước cách mạng vô sản ở các nước tư bản chính quốc và giúp cho phong trào công nhân ở các nước chính quốc.
Những quan điểm đổi mới táo bạo và to lớn được viết trong Báo cáo trên thể hiện tinh thần đổi mới, tầm cao trí tuệ và khí phách anh hùng cách mạng của Hồ Chí Minh. Nó chỉ có thể là sản phẩm phi thường của một trí tuệ phi thường, một tư duy đổi mới phi thường. ở đây, xin phép được lưu ý ràng, Hồ Chí Minh đã viết báo cáo đó trong lần đầu tiên đến Mátxcơva vào năm 1924. Lúc đó, Người mới theo Lênin và Quốc tế cộng sản được 4 năm trời, và nhiều lắm cũng chỉ mới qua một lớp học ngắn ngày và có lẽ là ngẫu nhiên tại Trường Đại học phương Đông. Vậy mà, Người đã dũng cảm và trung thực, bất chấp mọi sự nguy hiểm về mặt chính trị có thể xảy ra đối với bản thân, viết ra những cảm nhận và suy nghĩ độc đáo hết sức khác thường của mình, xuất phát từ thực tiễn, lấy thực tiễn và lợi ích của đất nước làm thước đo chân lý duy nhất. Điều đáng lưu ý nữa là, văn phong của bản báo cáo là văn phong biện luận. Sau khi nêu lên những sự thật về tình trạng giai cấp ở Việt Nam, Người đã viết: "Điều đó, không thể chối cãi được". (Sau này, trong Tuyên ngôn độc lập, nghĩa là 31 năm sau, Người lại dùng câu: "Đó là những lẽ phải không ai chối cãi được" sau khi nêu lên những quyền con người được ghi trong Tuyên ngôn Độc lập năm 1776 của nước Mỹ và Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền của Cách mạng Pháp năm 1791, để đi đến tuyên bố về quyền dân tộc chính đáng không thể phủ nhận của nhân dân Việt Nam).
Và, chúng ta không lấy làm lạ, từ những nhận thức phi thường ban đầu đó, về sau Hồ Chí Minh đã đi đến những quan điểm đổi mới hết sức phi thường, những kết luận hết sức phi thường trong việc đổi mới chiến lược, sách lược cách mạng phù hợp với điều kiện thực tế của Việt Nam là một nước thuộc địa nửa phong kiến. Có thể thấy, trong điều kiện giai cấp và quan hệ giai cấp như ở Việt Nam khi đó, trong điều kiện "công nhân có thể là 2% trong dân số, không được học hành" (theo báo cáo của Nguyễn Ái Quốc gửi Quốc tế cộng sản ngày 21/9/1923), có nghĩa là trong điều kiện giai cấp công nhân công xưởng mới ở thời kỳ manh nha hình thành và với thực trạng giai cấp và quan hệ giai cấp đó thì liệu có thể áp dụng học thuyết đấu tranh giai cấp, cách mạng vô sản và chuyên chính vô sản quá độ trực tiếp lên CHXH của chủ nghĩa Mác - Lênin được không, Nguyễn Ái Quốc đã dũng cảm nêu lên những nhận xét và quan điểm: "Cuộc đấu tranh giai cấp không diễn ra giống như ở phương Tây", "chủ nghĩa dân tộc là động lực lớn của đất nước", "xem xét lại chủ nghĩa Mác về cơ sở lịch sử của nó" và "chúng ta phải coi chừng”! Các dân tộc Viễn Đông có trải qua hai giai đoạn đầu (chế độ nô lệ, chế độ nông nô - N.H) không?". Có thể nói, những nhận thức nêu lên trong bản báo cáo trên chính là ngọn nguồn tư tưởng của đường lối giương cao ngọn cờ dân tộc dân chủ ngay từ đầu và sự đổi mới chiến lược, sách lược bước đầu được xác định ở Hội nghị Trung ương VIII (khoá I), để rồi sau đó, được hoàn chỉnh ở Đại hội II của Đảng. Và, 29 năm sau, trong Thường thức chính trị, Hồ Chí Minh đã trực tiếp trả lời cho những vấn đề nêu trên với những nội dung hoàn toàn mới mẻ như sau: "Thời đại của chúng ta là thời đại mới, thời đại cách mạng thắng lợi...". "Thời đại mới khiến cách mạng Việt Nam phải là cách mạng dân chủ mới". Và, "tuỳ theo hoàn cảnh mà các dân tộc phát triển theo con đường khác nhau để đi đến CHXH.
Đối với Việt Nam là một nước đi lên CHXH từ xã hội phong kiến thuộc địa thì phải "kinh qua chế độ dân chủ mới, rồi tiến lên CHXH". Đồng thời, Hồ Chí Minh đã nêu lên những đặc điểm về chính trị và kinh tế của chế độ dân chủ mới: sự lãnh đạo của Đảng, thực hiện "nhân dân dân chủ chuyên chính", phát triển nền kinh tế 5 thành phần (quốc doanh, hợp tác xã, cá thể, tư bản tư nhân, tư bản Nhà nước, trong đó, kinh tế quốc doanh giữ vai trò lãnh đạo).
Rõ ràng, Báo cáo về Bắc Kỳ, Trung Kỳ và Nam Kỳ thực sự là một bản báo cáo hết sức phi thường. Nó thể hiện tính độc lập tự chủ, đổi mới trong tư duy, trong nhận thức lý luận và tính trung thực, thái độ tôn trọng chân lý, tôn trọng sự thật, tinh thần đồng cảm và khí phách cách mạng của Hồ Chí Minh. Nó báo hiệu sự hình thành, sự ra đời tất yếu của một hệ thống tư tưởng mới của Hồ Chí Minh. Ở đây, có thể nêu lên một số điểm mang tính khái quát trong hệ thống tư tưởng mới đó, để chúng ta cùng suy ngẫm:
Từ "dùng sức ta mà giải phóng cho ta" đến cách mạng giải phóng dân tộc có thể giành thắng lợi trước cách mạng vô sản ở chính quốc.
Từ "trở về trước, đi vào quần chúng... đưa họ ra đấu tranh giành tự do độc lập" đến "không có gì quý hơn độc lập tự do".
Từ "chủ nghĩa dân tộc là động lực lớn của đất nước" đến cách mạng dân tộc dân chủ, Nhà nước dân chủ, "nước ta là nước dân chữ đến Đảng chỉ có thể là Đảng của một quốc gia.
Từ "thời đại mới là thời đại cách mạng thắng lợi" đến "cách mạng Việt Nam là cách mạng dân chủ mới".
Từ "Đảng của nhân dân, Đảng của dân tộc" đến Mặt trận đại đoàn kết toàn dân, đại đoàn kết dân tộc.
Từ "quyền dân tộc của nhân dân Việt nam" đến Mặt trận quốc tế ủng hộ cách mạng Việt Nam.
Từ "cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư", "nhân, nghĩa, trí, dũng, tín" đến "trăm điều phải có thần linh pháp quyền".
Từ chiến lược, sách lược đánh thắng hai đế quốc to đến chiến lược đối ngoại hòa bình, làm bạn với tất cả các nước, không gây thù oán với một ai.
Từ "ngoại giao và kinh tế có ảnh hưởng lẫn nhau”, "nếu mình có một chương trình kinh tế có lợi cho người ngoại quốc, họ có thể giúp mình" đến thực hiện chính sách mở cửa", mở rộng “lưu thông trong ngoài" để phát triển nền kinh tế "theo hướng chủ nghĩa xã hội" của đất nước.
Từ đấu tranh vũ trang đến đường lối ứng xử hiện đại: cùng giữ gìn hoà bình, cùng tôn trọng độc lập chủ quyền của nhau, cùng đối thoại bình đẳng, cùng hiểu biết nhau, cùng thành thực tin cậy nhau, cùng nhân nhượng, cùng thỏa thuận và hợp tác cũng có lợi.
Từ đổi mới nhận thức về CHXH đến con đường định hướng XHCN thích hợp với điều kiện thực tế của Việt Nam.
Từ "toàn dân kháng chiến, toàn diện kháng chiến, trường kỳ kháng chiến” đến "dựa vào lực lượng vĩ đại của toàn dân", tiến hành đổi mới "chống lại những gì đã cũ kỹ, hư hỏng, để tạo ra những cái mới mẻ, tốt tươi", tiến tới xây dựng và thực hiện thành công CHXH ở nước ta.
Nhìn vào những quan điểm mới mang tính hệ thống trong tư tưởng Hồ Chí Minh, chúng ta thấy, chúng xứng đáng được mệnh đanh là một học thuyết mới - học thuyết Hồ Chí Minh. Chúng ta không kìm được tự hỏi: Chúng sản sinh như thế nào? Trên cơ sở nào? Trong một bài viết về tư tưởng Hồ Chí Minh, nhà cách mạng lão thành, Giáo sư sử học Trần Văn Giàu đã có lý khi đề cập đến phương pháp luận, phương pháp tư duy Hồ Chí Minh. Đây chính là cơ sở dẫn đến sự hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh. Ông viết: "Suốt đời mình, Cụ Hồ có tính quen là quan sát thực tế... Sát thực tế là tính Cụ Hồ", "óc phân tích tổng hợp của Cụ Hồ rất sắc sảo". Và, "Cụ Hồ là người Việt Nam đầu tiên đề cao tầm quan trọng của lý luận. Theo Cụ Hồ, lý luận đối với một chính đảng quan trọng như linh hồn đối với con người. Song người ta thấy Cụ Hồ sau khi đã vạch ra tổng lộ tuyên thì chú trọng đặc biệt đến thực tiễn. Thực tiễn có thể chứng minh hoặc bác bỏ, hoặc đòi sửa đổi chủ trương mang tính lý luận. Thấy sai trái hay thiếu sót thì can đảm sửa, bổ sung, hay bỏ đi, đến đây thì thực tiễn là ưu tiên. Cụ Hồ là người dám nhìn thẳng vào sự thật. Cụ xem thực tiễn là trọng yếu số một. Cụ không thích lý luận tư biện cũng như không thích thực tiễn mù quáng".
Đúng vậy. Chúng ta có thể tìm thấy câu trả lời như trên trong các tác phẩm của Hồ Chí Minh: nói theo tiếng nói của thực tiễn trên cơ sở phép biện chứng duy vật và lấy lợi ích của Tổ quốc, của nhân dân làm thước đo chân lý duy nhất. Trong thư từ biệt gửi các bạn cùng hoạt động ở Pháp trước khi rời Paris năm 1923, Người viết:
“Chúng ta phải làm gì? Chúng ta không thể đặt vấn đề ấy một cách máy móc. Điều đó tuỳ hoàn cảnh của mỗi dân tộc chúng ta. Đối với tôi, câu trả lời đã rõ ràng: trở về nước, đi vào quần chúng, thức tỉnh họ, đoàn kết họ, huấn luyện họ, đưa họ ra đấu tranh giành tự do độc lập".
30 năm sau, Người viết rất rõ trong Thường thức chính trị: "Tất cả những người lao động trên thế giới đều có một mục đích chung là thoát khỏi áp bức bóc lột, được sống sung sướng tự do, tức là thực hiện chế độ cộng sản. Nhưng để đi đến mục đích ấy, mỗi nước phải tuỳ theo điều kiện của mình mà tiến dần"...
"Tính chất thuộc địa và phong kiến của xã lội cũ Việt Nam khiến cách mạng Việt Nam phải chia làm hai bước. Bước thứ nhất là đánh đổ đế quốc, đánh đổ củ phong kiến, thực hiện "người cày có ruộng", xây dựng chính trị và kinh tế dân chủ mới. Trong giai đoạn này, phải bảo vệ tư sản dân tộc, vì họ cũng chống đế quốc, chống phong kiến và họ là một lực lượng để phát triển công nghệ, nông nghiệp và thương nghiệp. Bước thứ hai là tiến lên CHXH, tức là giai đoạn đầu của chủ nghĩa cộng sản".
Thật rõ ràng, không thể đặt vấn đề một cách máy móc, giáo điều, Việt Nam nhất định sẽ đi đến CHXH nhưng từ điểm xuất phát là xã hội thuộc của và phong kiến, nên phải theo một con đường riêng thích hợp, mọi chủ trương chính sách đều phải xuất phát từ hoàn cảnh thực tế, cụ thể của đất nước và mỗi khi tình hình biến đối, có điều kiện mới nảy sinh thì phải kịp thời có sự thay đổi trong nhận thức tư tưởng và trong hành động, kể cả trong chiến lược, sách lược cách mạng, vận dụng linh hoạt phép biện chứng duy vật, lấy lợi ích của Tổ quốc, của nhân dân làm thước đo chân lý duy nhất, coi lợi ích của Tổ quốc, của nhân dân trên hết. Đó là những cơ sở khiến cho Hồ Chí Minh, với trí tuệ phi thường của mình, sáng tạo nên một hệ thống những quan điểm mới về chiến lược, sách lược cách mạng phù hợp với điều kiện thực tế của Việt Nam và tính chất của thời đại mới, đưa cách mạng Việt Nam đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác. Chúng ta không thể không chú ý, khi nói đến ưu điểm của chủ nghĩa Mác, Hồ Chí Minh chỉ nêu "phương pháp làm việc biện chứng" thôi. Đương nhiên, điều này trước hết có nghĩa là phép biện chứng duy vật vẫn giữ nguyên giá trị cho đến ngày nay. Những gì trái với nó đều không có cơ sở để tồn tại. Và, đối với chúng ta, việc vận dụng nó chỉ có thể đem lại hiệu quả khi thực sự xuất phát từ thực tế, không thoát ty điều kiện vật chất thực tế và lấy lợi ích ủa Tổ quốc, của nhân dân làm thước đo chân lý duy nhất. Xét đến cùng, theo học thuyết Hồ Chí Minh, lợi ích của tổ quốc, của nhân dân mới là “cái bất biến”, tất cả mọi cái khác, kể cả những quan điểm, tư tưởng, nếu muốn duy trì địa vị là chân lý hoặc trở thành chân lý mới, đều phải phù hợp với "cái bất biến" đó. Những gì trái với nó đều không phải là chân lý, càng không phải là chân lý mới. Người nói: “Chân lý là cái gì có lợi cho Tổ quốc, cho nhân dân. Cái gì trái với lợi ích của Tổ quốc, của nhân dân tức không phải chân lý".
Đương nhiên, việc phát hiện và nêu lên những quan điểm mới, những chân lý mới là một việc rất không giản đơn và dễ dàng. Những thế lực ra đời trên cơ sở những quan điểm cũ và được lợi (về chính trị, vật chất và tinh thần) trong việc duy trì những quan điểm cũ sẽ tìm trăm phương nghìn kế chống lại bất kỳ một quan điểm mới nào mà họ cho là có thể làm tổn hại lợi ích hoặc tình cảm riêng tư của họ. Cho nên, một người đám nêu lên những quan điểm mới, nhất là những quan điểm mới trong lĩnh vực khoa học xã hội, thực sự là một người "trí, nhân, dũng". Và, Hồ Chí Minh chính là một con người "trí, nhân, dũng" vĩ đại.
Trang: 1/2 1 2 »
Nguồn: Tạp chí Triết học
Số lượt đọc: 11830 - Cập nhật lần cuối: 09/09/2008 08:10:34 PM
http://chungta.com/Desktop.aspx/ChungTa-SuyNgam/Suy-ngam/Doi_moi-linh_hon_cua_tu_tuong_Ho_Chi_Minh/
Triết lý hành động Hồ Chí Minh
PGS, TS Nguyễn Hùng HậuNhững vấn đề triết học & đời sống 7
Trong lịch sử ta thấy có nhiều triết lý tách rời khỏi hành động, nói không đi đôi với làm, lý luận xa rời cuộc sống. Triết lý không gắn với hành động là triết lý để mà triết lý, triết lý tư biện, kinh viện, sách vở, xa rời, tách rời cuộc sống, chẳng hạn như triết lý của một số nhà tư tưởng Tây- Âu thời trung cổ nhằm phục vụ cho mục đích của thần học và tôn giáo, triết lý tư biện theo kiểu trò chơi của những khái niệm (chơi chữ), triết lý của một số nhà không tưởng... Học thuyết của họ đẹp thì có đẹp, hay thì có hay, nhưng không gắn với hoạt động, hành động thực tiễn mà đôi khi chúng trở thành trò chơi của lý trí, trí tuệ thuần tuý. Ngay giai cấp tư sản hô hào, giương cao triết lý về tự do, bình đẳng, bác ái, nhưng sau khi đánh đổ giai cấp phong kiến thì nó lại phớt lờ triết lý mà nó nêu lên ban đầu. Nói thì hay nhưng về sau không thực hiện là vì quyền lợi ích kỷ của nó. Lý luận của các nhà triết học trước Mác chủ yếu chỉ là giải thích, lý giải thế giới chứ không gắn liền với nhiệm vụ cải tạo cải biến thế giới. Chính vì vậy, sự xuất hiện của triết học Mác đã tạo ra một cuộc cách mạng trong triết học vì nó không chỉ giải thích mà còn cải tạo thế giới bằng hoạt động thực tiễn của con người.
Triết lý hành động Hồ Chí Minh không chỉ kế thừa những tinh hoa của triết học Đông Tây kim cổ mà còn kế thừa những điểm tinh tuý của triết học Mác- Lênin và đưa triết lý hành động lên tầm cao mới trong đó triết lý và hành động, nói và làm, lý luận và thực tiễn không tách rời nhau, tạo nên một khối thống nhất. Điều này thể hiện rõ khi Người cho rằng lý luận phải liên hệ với thực tế, học phải đi đôi với hành. Thực tiễn không có lý luận hướng dẫn thì thành thực tiễn mù quáng bởi lẽ khi đó thực tiễn không biết đi theo hướng nào, không biết đi về đâu giống như con tàu giữa biển khơi mù mịt nhưng lại không có la bàn. Còn lý luận mà không liên hệ với thực tiễn là lý luận suông, tức lý luận để mà lý luận, lý luận trở thành trò chơi của lý tính và lý trí. Người còn ví không có lý luận thì lúng túng như nhắm mắt mà đi, lý luận và kinh nghiệm như hai con mắt của con người, có kinh nghiệm mà không có lý luận cũng như một mắt sáng một mắt mờ. Bơm to, thổi phồng kinh nghiệm sẽ rơi vào bệnh kinh nghiệm chủ nghĩa, ngược lại, bơm to, thổi phồng lý luận sẽ rơi vào bệnh giáo điều kinh viện. Đó là hai loại bệnh tương đối phổ biến ở nước ta trước kia và hiện nay vẫn còn tồn tại trong một bộ phận không nhỏ cán bộ lãnh đạo quản lý.
Phương châm của Người là độc thư bất vong cứu quốc, cứu quốc bất vong độc thư, nghĩa là đọc sách không quên cứu nước, đọc sách không chỉ nâng cao tầm hiểu biết, rèn luyện trí tuệ mà phải hướng đến cứu nước cứu người, cứu nước không quên đọc sách, tức cứu nước không quên nâng cao trí tuệ. Qua đây ta thấy người cách mạng và người trí thức hòa quyện vào nhau, trong người cách mạng có người trí thức, trong người trí thức có người cách mạng, người cách mạng phải có trí tuệ, còn người trí thức phải phục vụ Tổ quốc, phục vụ nhân dân, người trí thức của nhân dân.
Triết lý Hồ Chí Minh là triết lý hành động, triết lý hành động thể hiện rõ nhất trong tư tưởng: "Dĩ bất biến ứng vạn biến". Như chúng ta đã biết, mối quan hệ giữa bất biến và vạn biến, giữa cái không thay đổi và cái thay đổi, giữa bản thể và hiện tượng, giữa cái nhất và cái đa... là vấn đề trung tâm của triết học xuyên suốt từ cổ chí kim, từ Đông sang Tây. Dĩ bất biến ứng vạn biến tức là lấy cái bất biến (không thay đổi) mà ứng phó với cái vạn biến (cái luôn thay đổi). Nhưng chữ "Dĩ” ở đây làm cho triết lý gắn liền với hành động. Ý nghĩa triết lý trên là ở chỗ dù mọi sự vật, thay đổi khôn lường nhưng đều xoay quanh trục của nó, cái mà Trang Tử gọi là "Chết của đạo", còn trong triết học gọi là bản thể. Trong mối quan hệ đó thì bản thể là bất biến, không sinh không diệt, còn các hiện tượng biến chuyển không ngừng, nay còn mai mất. Trong mỗi nền triết học, cái bất biến - bản thể không thêm không bớt được gọi bằng những cái tên khác nhau, chẳng hạn như Brahman trong triết học Ấn Độ, Đạo trong học thuyết Lão Trang, Thái cực trong Kinh dịch, vật chất trong chủ nghĩa duy vật...
Ý nghĩa nhân sinh sâu xa của triết lý này là ở chỗ trong cuộc sống nên nắm giữ cái lớn lao, đừng có sa vào những cái lặt vặt nhất thời, nên đứng ở chết (cái bất biến) mà quan sát, từ đó dung hòa, quân bình vạn vật. Những bậc thánh nhân luôn đứng ở cái bất biến mà quan sát cái vạn biến, dùng bất biến ứng phó với vạn biến, do đó mà thánh nhân trường cửu (bất biến). Không nắm được cái bất biến mà suốt đời cứ chạy theo cái vạn biến thì cả đời mỏi mệt. Nói cụ thể, trong cuộc đời mỗi người nên nhìn ra cái lớn, chứ đừng nên sa vào những cái vụn vặt, tầm thường, nói theo Vedanta, phải nhận ra đâu là bản thể trong cái hiện tượng, đâu là cái vĩnh hằng trong cái tạm thời, đâu là cái không thay đổi trong cái thay đổi, đâu là cái toàn thể trong cái cục bộ, đâu là cái bất biến trong cái vạn biến...
Vậy, cái bất biến ở Hồ Chí Minh là gì? Cái bất biến ở Hồ Chí Minh, theo tôi, tập trung ở bốn cái liên hệ mật thiết với nhau, không tách rời nhau, đó là độc lập, tự do, hạnh phúc, dân chủ. Không có độc lập, tức bị vong quốc, mất nước, đất nước trong cảnh nô lệ lầm than thì làm gì có tự do, lấy đâu ra tự do, hạnh phúc, dân chủ. Chính vì vậy, nước bị mất độc lập thì việc đầu tiên là phải giành cho bằng được độc lập, và trong hoàn cảnh như vậy, độc lập cho đất nước là cái bất biến số một hàng đầu. Có độc lập rồi thì mới nói đến tự do, tự do gắn liền với độc lập, nước có được độc lập thì dân mới được tự do. Với lý do đó mà Bác luôn nhắc nhở: trước hết là phải giành cho kỳ được độc lập, tất cả cho độc lập, không có gì qúy hơn độc lập tự do. Mặt khác, độc lập còn gắn liền với dân chủ. Có độc lập rồi thì mới nói đến chuyện dân làm chủ, còn nếu không có độc lập thì cũng không thể có dân chủ. Ở đây cần lưu ý rằng điều kiện tiên quyết để có tự do, dân chủ là nước phải độc lập, nhưng không phải cứ có độc lập là có ngay tự do, dân chủ. Do đó khi đã có độc lập rồi thì tự do, hạnh phúc, dân chủ lại nổi lên. Như vậy, mặc dù bốn yếu tố này nằm trong mối liên hệ mật thiết, không tách rời nhau, nhưng nhìn chung chúng lại chia ra làm hai cấp độ' một bên là độc lập, còn bên kia là tự do, hạnh phúc, dân chủ. Hai cấp độ này không tách rời nhau vì nếu có cái thứ nhất mà không có cái thứ hai thì cái thứ nhất cũng trở nên vô nghĩa. Theo Người, có độc lập mà dân không được hưởng tự do, hạnh phúc thì độc lập cũng chẳng để làm gì. Ngược lại, muốn có cái thứ hai thì đầu tiên, trước hết phải có cái thứ nhất. Cái thứ nhất là tiền đề không thể thiếu được, nhưng cái thứ hai mới là mục đích cuối cùng. Từ logic đó, Người đã gắn giải phóng dân tộc với chủ nghĩa xã hội - tư tưởng trung tâm, cốt lõi của Người.
Triết lý "Dĩ bất biến ứng vạn biến" có nghĩa là lấy cái bất biến (cái không thay đổi) ứng phó với cái vạn biến, ứng phó với cái vạn biến nhưng không xa rời, vứt bỏ, đánh mất cái bất biến. Hoàn cảnh luôn thay đổi, cuộc sống cũng như sự nghiệp cách mạng luôn phát triển, bởi vậy, sách lược trong từng lĩnh vực cụ thể cũng phải mền dẻo, uyển chuyển (cái vạn biến). Nhưng dù có mền dẻo, uyển chuyển như thế nào đi chăng nữa cũng không được quyên mục đích cuối cùng (cái bất biến), bởi nếu không sẽ dễ bị lạc vào cái mê cung, rừng rậm của vạn biến, cái vụn vặt mà không thấy đường ra.
Triết lý "Dĩ bất biến ứng vạn biến" đồng thời cũng là triết lý hành động, gắn với hành động bởi lẽ vì cái bất biến đó mà Người rời bỏ quê hương ra đi tìm đường cứu nước lúc Người mới 21 tuổi, và cũng chính vì cái bất biến đó mà Người đã hy sinh cả cuộc đời mình cho dân tộc, đặt lợi ích của dân, của nước lên trên hết, suốt đời hết lòng hết sức phục vụ Tổ quốc, phục vụ nhân dân.
Mỗi triết lý hành động đồng thời cũng là một triết lý sống, qui định một phong cách sống tương ứng. Triết lý hành động "Dĩ bất biến ứng vạn biến" đồng thời cũng là triết lý sống "Dĩ chúng tâm vi kỷ tâm" (Lấy tâm của mọi người làm tâm của mình). Để đi sâu vào triết lý sống này ta hãy xem tâm, lòng mong muốn của người dân Việt Nam khi đó là gì? Đó là nước được độc lập, dân được tự do, mọi người được hạnh phúc. Bác đã lấy cái tâm (mong muốn) của mọi người làm cái tâm (mong muốn) của mình khi Người viết: “Tôi chỉ có một ham muốn, ham muốn tột bậc, là làm sao cho nước ta được độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành". Bác đã lấy tâm của mọi người làm tâm của mình bằng những hoạt động thiết thực, cụ thể như ra đi tìm đường cứu nước và khi đã tìm được cái "cẩm nang" thì trở về nước thức tỉnh nhân dân, tổ chức, đoàn kết, huấn luyện họ, đưa họ ra tranh giành tự do, độc lập. Đến độ chín muồi, Người đã tiến hành thành lập Đảng, đề ra chiến lược, sách lược cách mạng cho từng thời kỳ, kêu gọi toàn dân đoàn kết, đẩy mạnh phong trào thi đua yêu nước... từ đó đã dẫn dắt dân tộc ta đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác.
Với triết lý sống "Đĩ chúng tâm vi kỷ tâm" đã khiến cho Bác và. Đảng ta ngoài lợi ích của nhân dân không còn lợi ích nào khác. Một ngày mà Tổ quốc chưa thống nhất, đồng bào còn chịu khổ đau là một ngày Bác ăn không ngon, ngủ không yên. Với triết lý sống "Đĩ chúng tâm vi kỷ tâm" tất yếu sẽ dẫn đến phong cách sống "Lo trước thiên hạ, vui sau thiên hạ", lối sống vì mọi người, hòa đồng cùng xã hội, thậm chí cả thiên nhiên cây cỏ, lối sống không cho riêng mình, và chính vì không cho riêng mình cho nên trường cửu.
Với triết lý hành động, triết lý sống như vậy, nên Người thường viết ít, nếu có viết thì ngắn gọn, dễ hiểu, dễ nhớ đề thực hiện, để làm, tức viết không phải để mà viết, nói không phải để mà nói, viết, nói để thức tỉnh và từ đó đứng lên làm cách mạng. Có người cho rằng khi viết cần phải trau truốt. Ngay trong "Đường cách mạng", phương châm, chủ trương của Bác là phải kêu to, làm chóng để cứu lấy giống nòi, thì giờ đâu mà vẽ vời trau truốt ở đây làm ta nhớ đến câu chuyện người đi đường bị bắn bởi một mũi tên thuốc độc thì việc đầu tiên là phải rút mũi tên ra để chạy chữa chứ không phải đứng đó triết lý về tại sao mình bị bắn. Dân tộc ta khi đó cũng vậy, nước bị mất, giống nòi có nguy cơ diệt vong, vì vậy không thể đứng đó triết lý về nguy cơ diệt vong của dân tộc, mà phải kêu to làm chóng để cứu lấy giống nòi.
Ở Hồ Chí Minh không chỉ triết lý gắn với hành động, đi liền với hành động mà ngược lại, ngay hành động cũng thể hiện triết lý. Theo GS Trần Văn Giàu, hoạt động thực tiễn, hành động biểu hiện tư tưởng trung thành hơn gấp nhiều lần những bài văn được ngòi bút đẽo gọt. Cái đánh giá đúng sai của tư tưởng không phải nằm trong tư tưởng mà phải ở trong hoạt động thực tiễn. Chính thực tiễn là cái duy nhất kiểm tra tính đúng đắn của tư tưởng, là tiêu chuẩn của chân lý. Thực tiễn được tổng kết biến thành lý luận, tư tưởng. Như vậy, hoạt động thực tiễn nói lên tư tưởng. Từ trước đến nay chúng ta quen cái lối nghiên cứu triết học, nghiên cứu tư tưởng qua câu chữ. Ngay đi theo hướng này cũng còn nhiều cái phải bàn, chẳng hạn có người chỉ dừng lại ở câu chữ bề ngoài mà chưa đi vào cái thần, cái hồn nằm sau các câu chữ. Theo Trang Tử, người ta dùng lời để đạt ý, được ý rồi hãy quên lời. Mặt khác, tư tưởng, triết lý theo tôi, đâu chỉ thể hiện qua câu chữ. Những nhà hiền triết phương Đông thường ít viết, ừ nói, nếu chỉ qua câu chữ của họ mà nói lên tư tưởng của họ thì e rằng không đầy đủ. Bởi vậy, triết lý, tư tưởng còn được biểu hiện, thể hiện qua nhiều hình thức khác như âm nhạc, hội họa, điêu khắc, qua hành động, hoạt động, hành vi, thái độ, cử chỉ, cách đối nhân xử thế của con người. Chúng ta cần giải mã, phát hiện đằng sau những di sản văn hóa vật chất và tinh thần, người xưa muốn gởi gắm những thông tin tư tưởng gì cho thế hệ mai sau, đặc biệt là những ý tưởng triết học. Chẳng hạn đằng sau ngôi chùa Một cột đứng sừng sững không lời, ông cha ta muốn gửi gắm cho thế hệ mai sau một triết lý vô cùng độc đáo:
“ Trong đầm gì đẹp bằng sen
Lá xanh bông trắng lại chen nhị vàng
Nhị vàng bông trắng lá xanh
Gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn”
Ngôi chùa tượng trưng cho bông sen mọc lên từ hồ ao, từ bùn lầy nhưng lại không bị mùi bùn hôi tanh làm cho nhơ bẩn. Bông sen tượng trưng cho cái tuyệt đối, ao hồ, bùn lầy tượng trưng cho cái tương đối. Như vậy cái tuyệt đối nằm trong cái tương đối, cái tương đối bao chứa cái tuyệt đối. Khi đã đạt đến cái tuyệt đối thì có thể ung dung tự tại sống trong cái tương đối mà không bị cái tương đối níu kéo, chi phối.
Phương hướng này có vị thế vô cùng quan trọng trong việc nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh, bởi lẽ qua câu chữ chỉ phản ánh được một phần tư tưởng của Người. Những cử chỉ, hành động, hành vi, tác phong, lối sống, cách đối nhân xử thế của Người, đều toát lên một triết lý thâm sâu vi tế, triết lý suốt đời vì dân, vì nước. Tóm lại, ở Hồ Chí Minh, triết lý và hành động gắn liền mật thiết, chặt chẽ với nhau, triết lý hướng đến hành động, hành động nói lên triết lý, trong triết lý đã bao hàm xu thế hành động, trong hành động có triết lý, triết lý và hành động xoắn xít với nhau tạo nên triết lý hành động Hồ Chí Minh mà không phải vĩ nhân nào cũng có được.
Nguồn: Những vấn đề triết học & đời sống
Số lượt đọc: 6720 - Cập nhật lần cuối: 08/09/2008 11:00:44 http://chungta.com/Desktop.aspx/ChungTa-SuyNgam/Suy-ngam/Triet_ly_hanh_dong_Ho_Chi_Minh/ PM
Đăng ký:
Đăng Nhận xét (Atom)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét