Thứ Bảy, 20 tháng 3, 2010

NGHIÊN CỨU VỀ HỒ CHÍ MINH (tiếp)

CHỐNG LẠI SỰ XUYÊN TẠC TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH


Nguyên nhân của các luận điệu xuyên tạc về Hồ Chí Minh và giải pháp đấu tranh chống lại các luận điệu xuyên tạc đó
GS.TS MẠCH QUANG THẮNG
Vài lời mở đầu
Chuyên đề này không đi sâu vào việc nêu lên và phân tích những luận điệu sai trái, thù địch, xuyên tạc, phản bác về cuộc đời, sự nghiệp, trước tác của Hồ Chí Minh, mà là nêu lên và phân tích những nguyên nhân, đồng thời nêu một số giải pháp đấu tranh với các luận điệu đó. Đương nhiên, theo một lôgíc của cả đề tài này, trong một phạm vi nhất định nào đó, có thể tôi sẽ đề cập một số luận điệu có liên quan để làm minh chứng.
I. NGUYÊN NHÂN
1. Nguyên nhân từ sự thâm thù chủ nghĩa cộng sản
Tôi muốn nhấn mạnh thêm rằng, trong nguyên nhân từ sự thâm thù chủ nghĩa cộng sản (hay viết theo thuật ngữ khoa học là “chủ nghĩa chống cộng anti-communisme”), có cả việc một số người ghét sự nghiệp cách mạng Việt Nam, ghét Đảng Cộng sản Việt Nam rồi đi đến ghét luôn cá nhân Hồ Chí Minh. Điều này có lôgíc của nó. Bởi vì, sự nghiệp của Hồ Chí Minh và sự nghiệp cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam là một.
Chủ nghĩa cộng sản đã và đang là một tâm điểm để các thế lực thù địch đả kích. Đã có rất nhiều chiến dịch lớn có quy mô quốc tế chống phá, vu khống chủ nghĩa cộng sản. Gần đây nhất là Hội đồng châu Âu ra một luật lên án chủ nghĩa cộng sản, đặt chủ nghĩa cộng sản ngang hàng như là chủ nghĩa phátxít. Các thế lực thù địch không từ một phương thức nào để xuyên tạc về chủ nghĩa cộng sản, trong đó có việc nói xấu những lãnh tụ, những người lãnh đạo cách mạng vô sản ở nhiều nước, ngay cả đối với V.I.Lênin. Điều này không có gì lạ. Đã có thời những người hận thù cộng sản ra sức xuyên tạc về “chân dung” của người cộng sản khi cho rằng, đó là người không có tình cảm, không có tình nghĩa cha con, vợ chồng, anh em, v.v. Thậm chí, cực đoan hơn, họ còn vẽ tranh tuyên truyền người cộng sản với hình ảnh mồm ngậm con dao găm, máu từ mồm rỉ ra, mặt đằng đằng sát khí, cứ như một con ma cà rồng, một con ngáo ộp. Dương Thu Hương là một trong những người ghét cộng sản, đã nói thẳng tâm trạng của nhóm người căm ghét chủ nghĩa cộng sản liên quan đến vấn đề này như sau: “Hồ Chí Minh đối với những người căm thù cộng sản trở thành hố rác để người ta trút tất cả những sự phẫn nộ, thù hận và sự khinh bỉ, vân vân và vân vân”[1].
Đã có lần Hồ Chí Minh ứng xử để “quảng bá” cho hình ảnh của người cộng sản trước định kiến xấu của nhiều người trên thế giới. Trong chuyến công du sang thăm Pháp với tư cách Chủ tịch Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hoà năm 1946, tại một buổi tiếp xúc giữa giới báo chí với Hồ Chí Minh, sẵn ý định nhấn mạnh sự không cảm tình cộng sản, có nhà báo đã hỏi Hồ Chí Minh: “Thưa Chủ tịch, Chủ tịch có phải là người cộng sản không?”. Hồ Chí Minh trả lời bằng cách đến bên lẵng hoa, vừa rút từng bông hoa tặng mỗi nhà báo đứng gần kèm theo câu trả hóm hỉnh: “Tôi là người cộng sản như thế này này” (Je suis communist comme ca). Người cộng sản cũng như bao con người khác, cũng có trạng thái tâm lý hỷ, nộ, ái, ố, ai, lạc, cũng có tình cảm, cũng có tình nghĩa, cũng có một cuộc sống gia đình bình thường. Có khác chăng là nếu cách mạng cần thì họ sẵn sàng hy sinh những cái riêng để phục vụ Tổ quốc, biết ứng xử mối quan hệ gia đình trong mối quan hệ chung với Tổ quốc.
Đây thuộc về cái TÂM. Cái tâm không trong sáng, đầy thù hận với sự nghiệp cách mạng gắn với tên tuổi của con người Hồ Chí Minh, thì điểm nhìn và cách nhìn của những người có cái tâm không trong sáng đó chắc chắn bị lệch lạc. Ở đây, không phải là sự ngộ nhận mà là ý đồ cố tình xuyên tạc. Ngộ nhận thì khác. Có thể người ta có cái tâm trong sáng, nhưng những thông tin đến với người ta bị sai lệch cho nên rất dễ làm cho người ta đi đến nhận định không đúng. Mỗi một khi thông tin đã được điều chỉnh, được đính chính thì người ta có thể dễ dàng thay đổi lại nhận định. Hoặc, cũng đối với một số người vốn có cái tâm trong sáng, khi nghiên cứu, nhìn nhận về Hồ Chí Minh nhưng với phương pháp không đúng thì cũng có thể đánh giá về Hồ Chí Minh bị sai lệch. Cũng như trường hợp trên đây, nếu được thay đổi phương pháp nghiên cứu, phương pháp tiếp cận cho phù hợp, cho đúng đắn thì người ta sẽ điều chỉnh lại nhận định cho đúng đắn hơn.
Đằng này, không phải là từ các nguồn thông tin, từ mức độ và chất lượng thông tin (các tài liệu của Hồ Chí Minh và về Hồ Chí Minh); không phải là từ phương pháp tiếp cận không phù hợp hay phương pháp nghiên cứu, nhìn nhận sai, mà là từ định kiến thâm thù. Đã như vậy thì một số người thuộc về trường hợp này sẵn sàng bóp méo thông tin, xuyên tạc, đổi trắng thay đen, đánh tráo khái niệm. Có một số trường hợp, một số người thuộc dạng có cái tâm không trong sáng này thể hiện cách nói, thể hiện ra các bài viết một cách tinh vi, ngụ ý, ẩn dấu, nhưng có không ít trường hợp thật trắng trợn, cực đoan, thể hiện ra bằng những lời lẽ “hàng tôm hàng cá”, hằn học, chửi bới, mạt sát Hồ Chí Minh, v.v. Tất cả các dạng đó có thể không hợp với đối tượng người này nhưng lại hợp với đối tượng người nghe, người đọc loại khác. Nhưng, xem ra, loại bịa đặt nhân chứng, tài liệu, hoặc dựa trên một vài sự kiện có thật để xuyên tạc về cuộc đời, sự nghiệp, trước tác Hồ Chí Minh, nghĩa là những cách trình bày lắt léo, tinh vi, cộng với bút pháp có vẻ ly kỳ hấp dẫn là có vẻ “ăn” hơn cả, nghĩa là có tác động lớn hơn cả, lừa được không ít người, nhất là đối với lớp người trẻ.
Vấn đề xuyên tạc, tôi xin nhấn mạnh lại một lần nữa, không phải là từ nhận thức, hay nói đúng hơn là vì ở tầm nhận thức thấp kém, hoặc thiếu thông tin đầy đủ, đúng đắn, mà là ở ý đồ xấu khi người ta đánh giá về Hồ Chí Minh.
Các nguồn tài liệu liên quan đến thân thế, sự nghiệp của Hồ Chí Minh cho đến nay nhiều vô kể. Nhưng, cái quan trọng nhất là cái nhìn, cái tâm của mỗi người khi đánh giá Hồ Chí Minh. Cùng một sự kiện, nhưng với cái tâm như thế này thì người viết đánh giá Hồ Chí Minh như thế, nhưng cùng với cái tâm khác thì người ta lại đánh giá về Hồ Chí Minh khác hẳn một trời một vực.
Số người viết sách, viết báo, cả báo viết, cả báo mạng, để cố tình xuyên tạc Hồ Chí Minh cho đến nay không ít. Họ xuyên tạc đủ điều, “bôi đen” Hồ Chí Minh từ đời riêng đến cả các mối quan hệ công tác và cố ý khái quát cả các những hiện tượng nhất thời, không đúng với bản chất của sự việc. Có khi họ cố tình đem Hồ Chí Minh đối lập với dân tộc Việt Nam. Có khi họ cho rằng, Hồ Chí Minh là đồ đệ của Quốc tế Cộng sản, của V.I.Lênin, của J.Xtalin nhưng núp dưới bóng của chủ nghĩa dân tộc. Họ lý giải hiện tượng lòng dân và ý dân Việt Nam yêu kính Hồ Chí Minh là do sùng bái cá nhân, v.v.
Một số người ở trong nước và nước ngoài không có tâm lành, không có đức dày cố tình gây nhiễu, xuyên tạc về cuộc đời và sự nghiệp của Hồ Chí Minh. Tôi lấy thí dụ về một vài vấn đề sau đây để làm rõ điều này. Đó là việc Hồ Chí Minh có vợ có con hay không là câu chuyện bị gây nhiễu, bị xuyên tạc nhiều nhất.
Ngày 3-11-1946, ông Nguyễn Sinh Khiêm, anh trai của Hồ Chí Minh, đến thăm em, nhân lúc vui vẻ có hỏi em mình: “Tôi muốn hỏi riêng chú, việc gia đình riêng của chú ra sao?”. Hồ Chí Minh trả lời hóm hỉnh: “Cảm ơn anh, em chưa bao giờ dám nghĩ đến việc này, đến nay đã tu, tu trót, qua thì thì thôi. Em không phải là người tu hành nhưng vì việc nước quên việc nhà”[2]. Điều này thì quả là rất phù hợp với quan điểm nhất quán của Hồ Chí Minh trong việc giải quyết mối quan hệ giữa cá nhân Hồ Chí Minh với việc riêng, việc nhà, việc nước. Ngày 9-11-1950, ở Việt Bắc kháng chiến, sau khi đi công tác về, Hồ Chí Minh nhận được tin ông Nguyễn Sinh Khiêm qua đời ở quê (25-8 năm Canh Dần, tức là ngày 6-10-1950 dương lịch).
Ông Nguyễn Sinh Khiêm qua đời, nhưng mãi hơn một tháng sau Hồ Chí Minh mới nhận được tin. Trong ánh chiều tà của núi rừng đại ngàn Việt Bắc, ngập dòng lệ, Hồ Chí Minh thảo một bức điện gửi về quê:
“Gửi họ Nguyễn Sinh
Nghe tin anh Cả mất, lòng tôi rất buồn rầu. Vì việc nước nặng nhiều, đường sá xa cách, lúc anh đau yếu tôi không thể trông nom, lúc anh tạ thế tôi không thể lo liệu.
Than ôi! Tôi xin chịu tội bất đệ trước linh hồn anh và xin bà con nguyên lượng cho cho một người con đã hy sinh tình nhà vì phải lo việc nước
Ngày 9 tháng 11 năm 1950
Chí Minh”[3]
Như vậy là, chữ hiếu và chữ đệ ở đây được Hồ Chí Minh đặt dưới “việc nước”. Việc nước là trên hết thảy, việc nhà phải tuân thủ và phải chịu sự hy sinh vì việc nước, biết rằng bản thân mình có tội bất đệ và Hồ Chí Minh đã nhận tội trước linh hồn của người anh trai. Hồ Chí Minh còn cho rằng, hiếu là hiếu với nhân dân, không những ta thương cha mẹ ta mà còn thương cha mẹ người khác, phải làm cho mọi người biết yêu thương cha mẹ; rằng, người kiên quyết cách mạng nhất lại là người đa tình nhất, vì nếu không làm cách mạng thì chẳng những bố mẹ mình mà hàng chục triệu bố mẹ người khác cũng bị đế quốc, phong kiến dày vò. Cái tôi cá nhân của Hồ Chí Minh bao giờ cũng được Hồ Chí Minh đặt thấp hơn cái cực đại của Tổ quốc, của nhân loại cần lao. Vì vậy, có thể rằng, cái việc lấy vợ của Hồ Chí Minh cũng vậy. Lúc trai trẻ thì Hồ Chí Minh đi đây đi đó khắp bốn phương trời, không tiện lấy vợ, lúc về nước thì đã luống tuổi, cũng có lúc định lấy vợ nhưng không thành.
Tháng 1 năm 1947, Hồ Chí Minh viết trong bức thư¬ chia buồn khi được tin con trai bác sĩ Vũ Đình Tụng, người theo đạo Thiên Chúa, oanh liệt hy sinh cho Tổ quốc: “Ngài biết rằng tôi không có gia đình, cũng không có con cái. Nư¬ớc Việt Nam là gia đình của tôi. Tất cả thanh niên Việt Nam là con cháu của tôi. Mất một thanh niên thì hình như tôi đứt một đoạn ruột. Nhưng cháu và anh em thanh niên khác dũng cảm hy sinh để giữ gìn đất nước. Thế là họ đã làm rạng rỡ dân tộc, vẻ vang giống nòi. Họ chết cho Tổ quốc sống mãi; vật chất họ mất nhưng tinh thần họ vẫn luôn luôn sống với non sông Việt Nam. Họ là con thảo của Đức Chúa, họ đã thực hiện cái khẩu hiệu: Thượng đế và Tổ quốc” [4].
Ngày 16-7-1947, trả lời câu hỏi thứ mười của một nhà báo nước ngoài, Hồ Chí Minh nói: “Ngài đã hỏi, tôi xin dẹp sự khiêm tốn lại một bên mà đáp một cách thực thà: tôi không nhà cửa, không vợ, không con, nước Việt Nam là đại gia đình của tôi. Phụ lão Việt Nam là thân thích của tôi. Phụ nữ Việt Nam là chị em của tôi. Tôi chỉ có một điều ham muốn là làm cho Tổ quốc tôi được độc lập, thống nhất, dân chủ. Bao giờ đạt đư¬ợc mục đích đó, tôi sẽ trở về làm một người công dân du sơn ngoạn thủy, đọc sách làm vườn”[5].
Năm 1948, cũng trong thời kháng Pháp, trong cơ quan Phủ Chủ tịch ở chiến khu Việt Bắc, Hồ Chí Minh là người hay khơi các trò chơi sau giờ làm việc. Có khi đó là một buổi tối lửa trại, tự diễn tuồng, chèo, kịch tại chỗ, có cả hoạt náo viên, có khi là họa thơ, đối thơ, v.v. Trong những buổi vui vẻ như vậy, nhiều người đề nghị Hồ Chí Minh lấy vợ. Có lần Hồ Chí Minh nói: “Các chú hỏi bao giờ Bác lấy vợ, phải không? Có hỏi thì có trả lời nhé: Không lâu nữa đâu! Bao giờ dân ta toàn thắng, Bắc – Nam sum họp một nhà!”[6]. Còn Phan Anh, khi thấy sức khoẻ của Hồ Chí Minh có phần giảm sút trong những ngày gian khổ tại An toàn khu (ATK) năm 1948 lúc Hồ Chí Minh 58 tuổi, trông Hồ Chí Minh đã già lắm rồi, có đề nghị Hồ Chí Minh lập gia đình để có người thân thương hằng ngày săn sóc, thì Hồ Chí Minh thủng thẳng nói: “Ông bảo thế tôi không phải là con người à? Tôi sống như mọi người mà. Có phải thần, thánh gì đâu Nhưng ông thấy đấy: việc nước bề bộn như vậy!”[7].
Người ta có quyền không tin những điều trên đây do chính bản thân Hồ Chí Minh viết và nói. Nhưng, ai và những tài liệu nào xác đáng để chứng minh rằng Hồ Chí Minh có vợ, có con? Không, không có tài liệu nào thuyết phục người đọc được cả.
Tôi bày tỏ quan điểm của tôi rằng: việc Hồ Chí Minh có vợ, có con hay không có vợ, không có con thì chẳng ảnh hưởng gì đến tư cách, đạo đức của bản thân cả. Nếu Hồ Chí Minh có vợ, có con, nghĩa là có gia đình riêng, thì với những gì Người đã cống hiến cho đất nước, tôi vẫn nhận định được rằng: Hồ Chí Minh đã hy sinh lợi ích riêng tư để dâng hiến cho Tổ quốc thân yêu của mình. Không phải không có vợ con mới là hy sinh chuyện riêng tư. Chỉ có điều là nếu Hồ Chí Minh có vợ thì đấy mới là chính là một con người hoàn chỉnh, không phải là phản tự nhiên. Cũng chính vì thế mà chúng ta hay nói người vợ hay người chồng chính là một nửa bên kia của nhau. Hồ Chí Minh cũng không ít lần nói về cái khiếm khuyết của chính cuộc đời mình, và một trong những khiếm khuyết đó là không có vợ; do vậy Hồ Chí Minh khuyên thanh niên Việt Nam đừng nên học mình về điều đó.
Nếu Hồ Chí Minh có vợ con thật thì Hồ Chí Minh không thể giấu được trong ngần ấy năm. Giấu làm sao được trong con mắt của hàng triệu, hàng triệu con người giữa thế gian, ở đất nước Việt Nam và cả ở trên thế giới. Người bình thường đã khó giấu, huống chi Hồ Chí Minh lại là một người nổi tiếng, là con người của công chúng, thì lại càng khó giấu hơn. Tục ngữ Việt Nam có câu: “Cái kim trong bọc lâu ngày rồi sẽ lòi ra”. Đã rất lâu ngày, nhưng cái bọc không thấy lòi ra một cái kim nào cả. Làm gì có cái kim nào. Còn miệng thế gian thì càng không thể nào che được.
Đã có người viết về người con gái đem lòng yêu Hồ Chí Minh, và bản thân Hồ Chí Minh cũng đem lòng yêu người con gái đó. Tôi cho rằng, trong cuộc đời Hồ Chí Minh nếu có như vậy là sự thường. Tình yêu thời trai trẻ, tại sao không? Một thanh niên thư sinh, đẹp trai, hào hoa, phong nhã, lại là con của một người đỗ đại khoa (Phó bảng), con quan, con nhà gia giáo mà không rung động trước phái đẹp, mà lại không yêu một người con gái nào đó, cũng như không có người con gái nào yêu mình, mới là sự lạ. Nhưng cần khẳng định một cách chắc chắn rằng, Hồ Chí Minh chưa bao giờ có vợ con.
Đã có không ít người cho rằng, Hồ Chí Minh có một người vợ là người Pháp, một là người Đức, một là người Nga, hai người vợ Trung Quốc, hai người vợ Việt Nam, v.v. Và, đương nhiên câu chuyện và danh sách vợ con của Hồ Chí Minh, theo họ, chưa dừng lại ở đó. Ngay cả nhà nghiên cứu, giáo sư Hoàng Tranh (Học viện Khoa học xã hội Quảng Tây – Trung Quốc hiện đã nghỉ hưu) cũng đã có bài viết tương đối dài đăng trong Tạp chí Đông Nam Á Tung hoành, số 11-2001 (Trung Quốc) đề cập về cuộc sống vợ chồng Hồ Chí Minh – Tăng Tuyết Minh (người Trung Quốc). Nhưng, tôi đã đọc rất kỹ bài viết của Hoàng Tranh thì thấy rằng, lập luận và những chứng cớ mà ông nêu ra không có sức thuyết phục. Mấy cuốn sách, bài báo của một số người ngoài nước chẳng rõ thật hư ra sao về vấn đề này, lại viết theo Hoàng Tranh. Công bằng mà nói, giáo sư Hoàng Tranh không phải là người không có cái tâm trong sáng. Ông vẫn là một nhà Hồ Chí Minh học có tiếng ở Trung Quốc và trên diễn đàn khoa học quốc tế. Ở Hoàng Tranh, có cái gì đấy như là sự đoán định không chắc chắn về việc này, sự suy diễn chỉ trên một mẩu nào đó của sự kiện, cho nên tôi cho rằng, những nhận định về chuyện vợ con của Hồ Chí Minh là không thuyết phục được người đọc.
Hồ Chí Minh là người hoạt động bí mật nhiều năm trời, cho nên không phải những gì mà tài liệu viết về Hồ Chí Minh đều là đúng sự thật, mặc dù đó là những tài liệu báo cáo chính thức, tài liệu lưu trữ trong kho lưu trữ chính trị-xã hội của Liên bang Nga từ năm 1992 (tiếp nối Lưu trữ của Đảng Cộng sản Liên Xô). Vì một số người không đặt vào hoàn cảnh đó khi nghiên cứu, cho nên mới dựa vào tài liệu báo cáo của Đại hội I Đảng Cộng sản Đông Dương và tài liệu lưu trữ ở Liên bang Nga để nhận định không đúng rằng, Hồ Chí Minh với Nguyễn Thị Minh Khai là vợ chồng.
Đấy là chưa kể có những người cố tình xuyên tạc, thêu dệt ly kỳ mặt “tình ái” của Hồ Chí Minh với mục đích bôi xấu Hồ Chí Minh, cho rằng Hồ Chí Minh chính là người bội bạc; rằng không phải Hồ Chí Minh là người đấu tranh giải phóng con người, đặc biệt là đấu tranh giải phóng phụ nữ, mà Hồ Chí Minh coi phụ nữ chỉ là đồ chơi; rằng, Hồ Chí Minh là con người nói dối, v.v. Tôi nghĩ rằng, nếu Hồ Chí Minh có đến 7-8 bà vợ và nhiều con như thế thì khi Việt Nam đang có chiến tranh ác liệt như vậy thì nhiều bà vợ chưa đến đất nước chồng mình đã đành, nhưng khi Việt Nam đã hoà bình rồi, khi Hồ Chí Minh đã nằm yên bình trong Lăng ở Ba Đình – Hà Nội rồi nhưng vẫn không có bà vợ nào (nếu còn sống), con cái nào của Hồ Chí Minh đến thăm. Làm gì có. Nhiều người cứ úp úp mở mở, viết và nói cứ lấp la lấp lửng làm ly kỳ hóa cái chuyện vợ con của Hồ Chí Minh.
2. Muốn “hạ bệ thần tượng”
Trong tiến trình cách mạng, Đảng Cộng sản Việt Nam càng ngày càng nhận thức rõ rằng, Hồ Chí Minh đã đóng vài trò cực kỳ quan trọng đối với cách mạng Việt Nam; rằng, thực tế của sự nghiệp cách mạng Việt Nam nói chung và của những năm đổi mới nói riêng đã chứng tỏ rằng, không những chủ nghĩa Mác – Lênin, mà còn là tư tưởng Hồ Chí Minh, đã trở thành yếu tố chỉ đạo làm nên thắng lợi cho nhân dân Việt Nam. Vì thế, tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII (tháng 6,7-1991), Đảng Cộng sản Việt Nam đã nêu cao tư tưởng Hồ Chí Minh. Đại hội VII của Đảng đã khẳng định: “Đảng lấy chủ nghĩa Mác – Lênin và t¬ư tư¬ởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động”[8]. Đại hội VII nêu rõ: “Tư tưởng Hồ Chí Minh là kết quả sự vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin trong điều kiện cụ thể của nước ta, và trong thực tế tư tưởng Hồ Chí Minh đã trở thành một tài sản tinh thần quý báu của Đảng ta và của cả dân tộc”[9].
Trong khi khẳng định và nêu cao tư tưởng Hồ Chí Minh, Đại hội VII còn cho rằng: “Chủ tịch Hồ Chí Minh…tiêu biểu sáng ngời cho sự kết hợp giai cấp và dân tộc, dân tộc và quốc tế, độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội. Tư tưởng Hồ Chí Minh đối với mỗi ng¬ười dân Việt Nam là vô cùng gần gũi, gắn liền với tình cảm yêu thương vô hạn của nhân dân đối với Bác, bởi công lao to lớn và đạo đức cách mạng trong sáng của Người. Vì vậy, nói tư tưởng Hồ Chí Minh là phù hợp với thực tế cách mạng nước ta, phù hợp với tình cảm và nguyện vọng của toàn Đảng, toàn dân ta”[10].
Đại hội VII xác định: “Điều kiện cốt yếu để công cuộc đổi mới giữ được định hướng xã hội chủ nghĩa và đi đến thành công là trong quá trình đổi mới, Đảng phải kiên trì và vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, giữ vững vai trò lãnh đạo xã hội”[11]. Đại hội nêu lên yêu cầu: “Trong những năm tới, nhiệm vụ chủ yếu của các ngành khoa học xã hội là vận dụng sáng tạo và phát triển học thuyết Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, tổng kết kinh nghiệm thực tiễn của nước ta và tiếp thu có chọn lọc những thành tựu khoa học của thế giới”[12].
Việc khẳng định lấy chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho hành động cũng đã đ¬ược ghi nhận trong hai văn kiện nữa rất quan trọng của Đảng Cộng sản Việt Nam và Nhà nước Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Việt Nam, đó là Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội được Đại hội VII của Đảng Cộng sản Việt Nam năm 1991 thông qua và trong Hiến pháp n¬ước Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Việt Nam được Quốc hội nước Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Việt Nam thông qua năm 1992.
Đến Đại hội IX (4-2001), Đảng Cộng sản Việt Nam đã nêu lên khái niệm tư tưởng Hồ Chí Minh một cách đầy đủ hơn Đại hội VII: “Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, là kết quả của sự vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta, kế thừa và phát triển các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hoá nhân loại”[13].
Tiếp đó, Đại hội IX còn chỉ ra một cách cụ thể một số nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh: đó là tư tưởng về giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người; về độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại; về sức mạnh của nhân dân, của khối đại đoàn kết toàn dân tộc; về quyền làm chủ của nhân dân, xây dựng Nhà nước thật sự của dân, do dân, vì dân; về quốc phòng toàn dân, xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân; về phát triển kinh tế và văn hoá, không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân; về đạo đức cách mạng cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư; về chăm lo bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau; về xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, cán bộ, đảng viên vừa là người lãnh đạo, vừa là người đày tớ thật trung thành của nhân dân…
Đến đây, chúng ta thấy rằng, Đại hội IX của Đảng không những cho rằng tư tưởng Hồ Chí Minh là kết quả của sự vận dụng chủ nghĩa Mác – Lênin, mà cái mới lần này Đảng ta nêu rõ Tư tưởng Hồ Chí Minh còn là kết quả của sự phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin nữa.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng Cộng sản Việt Nam họp vào tháng 4 năm 2006, khi đề cập tư tưởng Hồ Chí Minh, đã nhận định: “Sự nghiệp cách mạng của Đảng và của nhân dân ta 76 năm qua đã khẳng định rằng, tư tưởng vĩ đại của Người cùng với chủ nghĩa Mác – Lênin mãi mãi là nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động của Đảng và cách mạng Việt Nam, là tài sản tinh thần vô giá của Đảng và dân tộc ta. Tư tưởng đó đã dẫn dắt chúng ta trên mỗi chặng đường xây dựng và phát triển đất nước, là ngọn cờ thắng lợi của cách mạng Việt Nam, là sức mạnh tập hợp và đoàn kết toàn dân tộc trong sự nghiệp cách mạng của chúng ta hôm nay và mai sau”[14].
Đây chính là luồng đánh giá tiếp nối, là sự khẳng định thêm một lần nữa tư tưởng Hồ Chí Minh, giá trị, vai trò to lớn của tư tưởng Hồ Chí Minh đối với cách mạng Việt Nam.
Trong nhiều “kênh” chống phá sự nghiệp cách mạng Việt Nam, muốn đưa Việt Nam đi theo con đường khác, không phải là con đường độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, các thế lực thù địch của cách mạng Việt Nam đã nhằm vào hai “kênh” chính yếu nhất: chống Đảng Cộng sản Việt Nam và chống Hồ Chí Minh.
Cũng dễ hiểu thôi, vì đó là kênh thứ nhất: chống một tổ chức chính trị đang cầm quyền, tìm mọi cách làm cho Đảng Cộng sản Việt Nam yếu đi, làm cho nó dần dần biến chất hoặc đi đến tan rã. Nếu điều đó xẩy ra thì tình hình sẽ như thế nào, chúng ta thấy rõ ngay: mọi thành quả cách mạng mà Đảng Cộng sản và nhân dân Việt Nam tốn bao nhiêu mồ hôi, nước mắt, bao nhiêu tinh lực, bao nhiêu núi xương sông máu, phút chốc sẽ bị đổ xuống sông xuống biển; Việt Nam sẽ đi theo con đường khác.
“Kênh” thứ hai là chống vào nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho hành động của Đảng Cộng sản Việt Nam và đánh vào giá trị tinh thần to lớn của Đảng và dân tộc, hay nói như nhiều người đã nói là “hạ bệ thần tượng” Hồ Chí Minh. Hồ Chí Minh, cuộc đời, sự nghiệp, tư tưởng của Hồ Chí Minh, đã trở thành giá trị văn hóa có tính bền vững của cả dân tộc Việt Nam. Làm sụp đổ thần tượng này, tức là làm đánh mất giá trị văn hóa và làm cho Việt Nam đi theo một con đường khác. Giá trị tinh thần Hồ Chí Minh với Đảng Cộng sản Việt Nam, với sự phát triển của dân tộc trên con đường xã hội chủ nghĩa là một. Đánh vào Hồ Chí Minh cũng tức là đánh vào sự nghiệp cách mạng Việt Nam. Chĩa mũi dùi vào Hồ Chí Minh, hạ bệ “thần tượng” Hồ Chí Minh cũng là một biện pháp mà các thế lực xấu, thế lực phản động thường làm. Chính vì vậy, trên các phương tiện thông tin đại chúng, mà trong thời đại bùng nổ công nghệ thông tin 3.0 hiện nay, những bài, những sách viết xuyên tạc về Hồ Chí Minh quá nhiều. Những người chống đối sự nghiệp cách mạng Việt Nam, trong đó có cả việc chống Hồ Chí Minh, đã thẳng thừng tuyên bố rằng: “Trong khối “8406” bây giờ có mục tiêu cương quyết đạp đổ thần tượng Hồ Chí Minh, phá bỏ huyền thoại, và vì thế tìm đủ mọi cách để có thể hạ bệ thần tượng Hồ Chí Minh bằng mọi giá”[15].
Trong nhiều ý kiến xuyên tạc, đáng chú ý là những ý kiến cho rằng, không có tư tưởng Hồ Chí Minh; rằng, tư tưởng Hồ Chí Minh chỉ là điều do Đảng Cộng sản Việt Nam tưởng tượng ra; rằng, cuộc đời của Hồ Chí Minh đầy những điều giả dối, Hồ Chí Minh là con người độc tài, v.v. do đó không xứng đáng là một “thần tượng” để mọi người dân Việt Nam ngưỡng mộ; rằng, sự ngợi ca, tôn vinh Hồ Chí Minh chỉ là sự sùng bái cá nhân mà thôi.
Trong nhiều biện pháp, thì biện pháp đánh vào cái gốc, đánh vào nền tảng tư tưởng, đánh vào yếu tố tinh thần, đánh vào giá trị văn hóa với tư cách như là la bàn định hướng đi cho dân tộc, đánh vào lãnh tụ của sự nghiệp cách mạng Việt Nam…là biện pháp thâm hiểm nhất. Cho nên, những kẻ xấu không từ một thủ đoạn nào, một hành vi nào, tận dụng tất cả mọi diễn đàn có thể có được trong công nghệ thông tin hiện đại để bôi xấu, xuyên tạc về cuộc đời, sự nghiệp, tư tưởng, trước tác của Hồ Chí Minh. Họ muốn viết càng nhiều càng tốt, nói càng nhiều càng tốt, trên nhiều phương tiện càng tốt, dựng chuyện ly kỳ, bịa đặt, nói và viết úp úp mở mở…mà làm cho ngay cả không ít người có lương tri có lúc cũng “loáng choáng”.
Tôi khẳng định rằng, tập trung vào hai “kênh” đó, chĩa mũi dùi vào hai “kênh” đó, nếu thành công, thì đó là con đường ngắn nhất để những người có ý đồ xấu đối với cách mạng Việt Nam đạt được mục tiêu. Do vậy, bảo vệ Đảng Cộng sản Việt Nam, bảo vệ Hồ Chí Minh, trong đó có tư tưởng Hồ Chí Minh, bảo vệ chủ nghĩa Mác – Lênin, là những cuộc chiến đấu gian khổ, quyết liệt để bảo vệ sự phát triển của dân tộc, tức là bảo vệ và khẳng định, kiên trì con đường xã hội chủ nghĩa mà Hồ Chí Minh và nhân dân ta đã lựa chọn và Đảng Cộng sản Việt Nam đã khẳng định lại ngay từ ngày đầu thành lập đầu năm 1930.
3. Nguyên nhân từ sự bất mãn của một số cá nhân
Những người bất mãn là những người Việt Nam từng có liên quan đến việc này việc nọ, từng giữ chức vụ này chức vụ nọ trong bộ máy của hệ thống chính trị ở Việt Nam, nay không còn có tình cảm với cách mạng hoặc thù hận do nhận thức sai lệch, do bị “dính” đến một hoặc nhiều sự kiện nào đó, hoặc bản thân mình hoặc người trong gia đình mình bị tổn thương… Điều này là dễ hiểu, vì trong quá trình cách mạng Việt Nam, có một số vấn đề sai lầm ảnh hưởng đến gia đình người này, người nọ, có một số sự việc rất nhạy cảm liên quan trực tiếp đến người này, người nọ. Chúng ta thấy đó là những người liên quan đến cải cách ruộng đất, đến “Nhân văn giai phẩm”, đến nhóm chống Đảng, v.v. Một số trong họ đang ở trong nước, một số khác định cư ở nước ngoài, có trường hợp “ra đi” hợp pháp, lại có trường hợp không hợp pháp. Chúng ta thường thấy bài vở, tác phẩm của họ trên các quầy sách báo nước ngoài, trên nhiều phương tiện thông tin đại chúng, trên các báo mạng internet. Đó là Nguyễn Minh Cần, Bùi Tín, Vũ Thư Hiên, Lê Hữu Mục, Thế Anh, Dương Thu Hương, v.v.
Tôi thấy rằng, những tác phẩm, bài vở của họ về cách mạng Việt Nam, về Hồ Chí Minh sặc mùi cực đoan, xuyên tạc, chửi rủa, hằn học, thâm thù…Họ dùng đủ lời lẽ, lập luận để vu cáo, xuyên tạc. Họ làm ra vẻ họ là những người “trong cuộc”, là những người nằm trong lòng các sự kiện đó, thậm chí là những sự kiện cho đến hiện nay được nhiều người coi là bí ẩn, cho nên họ cho rằng, họ là những người nắm chắc được bản chất của sự kiện để đưa ra thông điệp cho người đọc, người nghe rằng, những điều họ viết, họ nói mới là sự thật. Họ tự phong cho mình là người “vén những tấm màn bí mật” ở chốn “thâm cung bí sử”.
Thế yếu nhất của họ thường là bị mang danh là người bất mãn với chế độ chính trị, với cách mạng Việt Nam, bị nhiều người coi là “những phần tử phản động”, cho nên họ có thái độ cực kỳ cay cú, cho nên họ sẵn sàng bịa chuyện, hoặc dựa trên một vài sự kiện, tài liệu có thật để rồi thêm thắt, bình luận, hoặc viết rất ly kỳ, tinh vi để nói xấu Hồ Chí Minh, nói xấu cách mạng, tự bào chữa cho những sai lầm của họ hoặc gia đình họ trong quá khứ, hoặc nhấn mạnh, tô đậm những sai lầm, khuyết điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam. Chính bản thân Dương Thu Hương cho rằng: “Còn đối với những người vượt biên, hay những người là nạn nhân của chế độ cộng sản, buộc phải rời Tổ quốc ra đi trong một nỗi đau khổ khốn cùng, trong một lòng thù hận khôn nguôi, thì chỉ có Hồ Chí Minh là cái đích, cái biểu tượng dễ nhất để mà khạc nhổ, để mà đánh đấm”[16].
Sự bất mãn của họ làm cho họ phát ngôn rất cực đoan về thân thế, sự nghiệp, tư tưởng Hồ Chí Minh. Họ tìm mọi cách nói xấu Hồ Chí Minh, ly gián người này người nọ, bịa chuyện. Họ tận dụng nhiều diễn đàn, thể loại để làm việc đó, như viết báo, nhất là trên mạng internet; viết sách; nói chuyện với nhiều đối tượng; viết văn, v.v.
Số người bất mãn này thường liên lạc với nhau ở trong nước và ngoài nước, tự phong là những người dân chủ, bất đồng ý kiến với Đảng Cộng sản và Nhà nước Việt Nam. Trong số những người bất mãn, thực ra không phải ai cũng xuyên tạc Hồ Chí Minh. Họ chĩa mũi dùi vào Đảng Cộng sản Việt Nam, nhưng có không ít người vẫn kiềng nể Hồ Chí Minh; nhưng phần đông trong số họ là xuyên tạc đả kích cả hai, cả Đảng Cộng sản Việt Nam, cả cuộc đời, sự nghiệp, tư tưởng Hồ Chí Minh. Thực ra, tác dụng của sự xuyên tạc từ những người bất mãn này không thực sự lớn, vì họ mang danh là những người phản bội; người đọc, người nghe thấy rõ bản chất, thái độ, động cơ chính trị của họ. Lợi thế của họ chính là ở chỗ họ nói với những người nghe và người đọc rằng, họ là những người trong cuộc; họ là sản phẩm của cách mạng, thậm chí một số người xuất thân là con em cách mạng, v.v. Số này, lúc đầu còn có vẻ e dè, nhưng càng về sau viết xuyên tạc về Hồ Chí Minh càng mạnh mẽ hơn, không ngại bất cứ khía cạnh nào, kể cả những khía cạnh về mặt đời tư của Hồ Chí Minh, cố tình bôi đen đời tư của Hồ Chí Minh và rồi mức độ càng ngày càng cay cú, cực đoan.
Trở lên bên trên, tôi đã nêu lên ba nguyên nhân của các luận điệu xuyên tạc về cuộc đời, sự nghiệp, tư tưởng và trước tác của Hồ Chí Minh. Có thể còn một số nguyên nhân nữa, có cả nguyên nhân xa. Chẳng hạn, có cả nguyên nhân là cuộc đời, sự nghiệp, tư tưởng Hồ Chí Minh cho đến hiện nay chưa được giới khoa học trong nước nghiên cứu một cách đầy đủ, chưa được làm rõ và khẳng định một cách chắc chắn. Cũng có thể nói rằng, còn khá nhiều khoảng trống nghiên cứu về Hồ Chí Minh chưa được lấp đầy. Điều này vô hình trung trở thành một mặt thuận lợi cho những kẻ xấu lợi dụng để xuyên tạc Hồ Chí Minh. Ở đây, cần có giải pháp hữu hiệu mà tôi sẽ trình bày ở sau.
II. GIẢI PHÁP ĐẤU TRANH CHỐNG LẠI NHỮNG LUẬN ĐIỆU XUYÊN TẠC VỀ HỒ CHÍ MINH
Giải pháp về vấn đề này có thể có nhiều, nhưng trong điều kiện hiện nay, theo tôi, có ba giải pháp chủ yếu sau đây làm thành một thể thống nhất để chống lại những luận điểm xuyên tạc về Hồ Chí Minh:
1. Đẩy mạnh việc nghiên cứu một cách sâu sắc và đúng đắn, đầy đủ về Hồ Chí Minh
Việc nghiên cứu Hồ Chí Minh đã được đặt ra từ lâu, và cũng đã có một số kết quả tốt, nhưng quả thật cũng còn nhiều vấn đề cần tiếp tục phải được đẩy mạnh, cần “lấp những khoảng trống”, cần có những nhận định, đánh giá sát thực hơn, với nguồn tài liệu phong phú, đầy đủ hơn, với những phương pháp phù hợp hơn.

Cuộc đời và sự nghiệp của Hồ Chí Minh được người ta biểu đạt qua nhiều lĩnh vực. Ngoài lĩnh vực khoa học ra, còn có cả trên lĩnh vực văn học, nghệ thuật nữa. Rồi cả phương pháp tiếp cận, phương pháp nghiên cứu, phương pháp thể hiện…của mỗi người đều có sự khác nhau. Khác nhau như thế là sự thường. Mà chính do có khác nhau cho nên nhân vật Hồ Chí Minh mới được người ta biểu đạt một cách nhiều chiều, lung linh, sinh động. Và, như thế thì quả thật Hồ Chí Minh là một nhân vật thật sự hấp dẫn.
Cho đến nay, thành quả nghiên cứu về Hồ Chí Minh ở trong nước, về những nét đại thể, đã đạt được một số điểm sau đây:
Một là: Đã nêu lên được những nét lớn, có tính cơ bản về cuộc đời, sự nghiệp, tư tưởng Hồ Chí Minh.
Nhận thức là một quá trình. Đúng thế. Không phải ngay từ đầu mà những nhà hoạt động chính trị và những nhà khoa học đã đánh giá một cách đầy đủ, đúng đắn về Hồ Chí Minh. Hồ Chí Minh đã bị nhiều lần, nhiều người hiểu lầm, hiểu lầm một cách dai dẳng. Từ khi Hồ Chí Minh trở về nước năm 1941, nhất là từ sau thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945, việc đánh giá về Hồ Chí Minh từ các nhà hoạt động chính trị đã khách quan hơn, đúng đắn hơn. Nhưng, dù sao, với hoàn cảnh Hồ Chí Minh còn sống, việc nghiên cứu về Hồ Chí Minh chưa thực sự được đẩy mạnh, thể hiện ngay cả ở những trang tiểu sử của Người với tư cách là lãnh tụ của một Đảng và là nguyên thủ quốc gia Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, rất sơ sài, lỗ mỗ, trống vắng nhiều sự kiện cơ bản trong cuộc đời và sự nghiệp của Hồ Chí Minh.
Kể từ khi Hồ Chí Minh qua đời ngày 2-9-1969 trở đi, việc nghiên cứu Hồ Chí Minh ở trong nước và ngoài nước được đẩy mạnh hơn. Đặc biệt là từ sau Đại hội VII của Đảng Cộng sản Việt Nam, khi Đảng nêu cao tư tưởng Hồ Chí Minh, khẳng định lấy tư tưởng Hồ Chí Minh, cùng chủ nghĩa Mác – Lênin, làm nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho hành động, thì việc nghiên cứu Hồ Chí Minh càng được đẩy mạnh hơn. Lần đầu tiên, đã có hẳn một Chương trình khoa học cấp nhà nước mã số KX.02 “Nghiên cứu Hồ Chí Minh” (giai đoạn 1991-1995) với 13 đề tài do Viện Nghiên cứu chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh chủ trì, Giáo sư Đặng Xuân Kỳ (Viện trưởng) làm Chủ nhiệm và Đại tướng Võ Nguyên Giáp làm Cố vấn. Sau giai đoạn đó trở đi, tuy không thành một chương trình với quy mô lớn, nhưng một số đề tài khoa học nghiên cứu Hồ Chí Minh các giai đoạn tiếp theo vẫn được tiếp tục tiến hành. Tất cả công việc triển khai nghiên cứu Hồ Chí Minh trên đây, nhất là từ Chương trình KX.02, cho chúng ta thấy, Hồ Chí Minh đã được biểu đạt một cách rất cơ bản, từ cả thân thế, sự nghiệp đến tư tưởng, cả những tác phẩm của Người. Nhiều khoảng trống về Hồ Chí Minh đã được san lấp bằng những kết quả nghiên cứu khoa học xác đáng. Nhiều tài liệu về Hồ Chí Minh, của Hồ Chí Minh đã được đính chính cho chính xác, đã được bổ sung cho đầy đủ hơn. Nhiều nhận định, đánh giá về Hồ Chí Minh đã được đặt trên cơ sở khoa học, chắc chắn hơn.
Hai là: Đã hình thành lực lượng nghiên cứu Hồ Chí Minh ở trong nước tương đối đông đảo, nghiên cứu một cách có bài bản hơn.
Lực lượng nghiên cứu Hồ Chí Minh trong những năm từ sau 1991 trở đi đã được tập hợp lại, hình thành trong các viện nghiên cứu, trong các nhà trường, tạo thành một lực lượng chuyên nghiệp đi sâu vào lĩnh vực nghiên cứu và giảng dạy và đã hình thành một chuyên ngành “Hồ Chí Minh học”. Cho đến nay, lực lượng đó đã có hầu khắp nước, trong tất cả hệ thống các trường chính trị, các trường quân đội, công an, các trường đại học và cao đẳng.
Có rất nhiều công trình khoa học nghiên cứu về Hồ Chí Minh đã được công bố. Năm 2004, trong khuôn khổ tổng kết một số vấn đề lý luận – thực tiễn qua 20 năm đổi mới, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh (nay là Học viện Chính trị-Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh) đã tiến hành nghiên cứu hai chương trình khoa học trọng điểm, trong đó có Chương trình tổng kết Nghiên cứu, giáo dục tư tưởng Hồ Chí Minh trong thời kỳ đổi mới. Công trình khoa học này đã được Nhà xuất bản Lý luận chính trị xuất bản tháng 5 năm 2005[17]. Công trình đã tổng thuật, tuy chưa được đầy đủ, nhưng cũng đã nêu lên được những nét chính về các công trình ở trong và ngoài nước viết về Hồ Chí Minh.
Đã có rất nhiều giáo trình tư tưởng Hồ Chí Minh được xuất bản và đưa vào dạy và học trong các trường. Đó là Giáo trình tư tưởng Hồ Chí Minh được biên soạn bởi Hội đồng Trung ương Chỉ đạo biên soạn giáo trình quốc gia các bộ môn khoa học Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh (Ban biên soạn: GS Đặng Xuân Kỳ – Chủ biên; GS Vũ Khiêu; GS Song Thành), Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2003. Bộ Giáo dục và Đào tạo có Giáo trình tư tưởng Hồ Chí Minh dùng trong các trường đại học và cao đẳng trong cả nước (Tập thể tác giả: GS,TS Mạch Quang Thắng – Chủ biên; PGS Lê Mậu Hãn; PGS,TS Vũ Quang Hiển; TS Phạm Ngọc Anh; PGS,TS Ngô Đăng Tri; PGS,TS Bùi Đình Phong; TS Ngô Văn Thạo), Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005. Theo chủ trương biên soạn chương trình, giáo trình mới, cuốn Giáo trình Tư tưởng Hồ Chí Minh lần sau, được nghiệm thu cuối năm 2008, do các vị sau đây biên soạn: PGS,TS Phạm Ngọc Anh (Chủ biên), GS,TS Mạch Quang Thắng, GS,TS Nguyễn Ngọc Cơ, PGS,TS Vũ Quang Hiển, TS Lê Văn Thịnh, dự định sẽ xuất bản năm 2009. Ở Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, ngay từ nửa cuối những năm 90 thế kỷ XX trở đi, đã biên soạn nhiều tập bài giảng, giáo trình cho các hệ đào tạo cao cấp lý luận chính trị, cử nhân chính trị, cao học. Một số học viện, trường đại học trong và ngoài Quân đội Nhân dân Việt Nam cũng đã biên soạn giáo trình riêng cho cơ sở đào tạo của mình. Có thể nói rằng, với việc mở đầu rất tích cực và có hiệu quả từ Chương trình khoa học cấp nhà nước “Nghiên cứu Hồ Chí Minh”, mã số KX.02, giai đoạn 1991-1995, việc nghiên cứu Hồ Chí Minh đã đạt được nhiều kết quả tích cực.
Ba là: Phương pháp nghiên cứu Hồ Chí Minh đã được chú ý cho phù hợp hơn, đúng đắn hơn.
Những phương pháp nghiên cứu được sử dụng đã tuân thủ phép biện chứng duy vật, tôn trọng sự thật, liên hệ tổng thể, gắn với những điều kiện lịch sử cụ thể, v.v.
Đó là một mặt của tình hình. Nhìn nhận một cách nghiêm khắc, tôi cho rằng, công tác nghiên cứu Hồ Chí Minh vẫn còn nhiều hạn chế. Do vậy, giải pháp để chống lại những luận điệu xuyên tạc Hồ Chí Minh, ngoài việc phát huy những kết quả tốt đã đạt được trong nghiên cứu Hồ Chí Minh, còn phải chú ý khắc phục những hạn chế sau đây:
Trước hết, đó là vẫn còn nhiều tài liệu của Hồ Chí Minh, về Hồ Chí Minh chưa được sưu tầm đầy đủ, chưa được xử lý một cách khoa học.
Muốn nghiên cứu để có những nhận định chính xác, trên cơ sở khoa học về Hồ Chí Minh, điều cốt yếu nhất là phải có những tài liệu cơ bản, tương đối đầy đủ của Hồ Chí Minh và về Hồ Chí Minh.
Có người chỉ dựa vào tài liệu thành văn từ nhiều nguồn khác nhau để nghiên cứu và viết về Hồ Chí Minh, nhất là những tài liệu ở các kho lưu trữ trên thế giới. Lớn nhất là ở Nga và ở Pháp. Tài liệu nhiều ở Pháp là vì Hồ Chí Minh đã có một thời gian sống và hoạt động yêu nước, cách mạng ở Pháp (gần 10 năm – không liên tục). Khối lượng tài liệu từ các báo cáo của mật thám Pháp theo dõi Nguyễn Ái Quốc khá nhiều và rất tỷ mỉ, tuy chỉ là những nhận xét bên ngoài.
Những tài liệu liên quan đến Đảng Cộng sản Việt Nam (tôi gọi chung cho các thời kỳ của các tên gọi Đảng Cộng sản Việt Nam, Đảng Cộng sản Đông Dương, Đảng Lao động Việt Nam) và liên quan đến Hồ Chí Minh có rất nhiều ở kho lưu trữ của Đảng Cộng sản Liên Xô (đặt tại thủ đô Mátxcơva), phông Quốc tế Cộng sản. Hồ Chí Minh đã hoạt động ở Liên Xô từ mùa hạ năm 1923 và sau đó gần một năm chính thức trở thành một cán bộ của Ban Phương Đông Quốc tế Cộng sản. Đảng Cộng sản Việt Nam là một phân bộ độc lập của Quốc tế Cộng sản từ tháng 4 năm 1931. Do đó, các báo cáo, thư từ, các tài liệu khác liên quan đến Đảng Cộng sản Việt Nam và liên quan đến Hồ Chí Minh được lưu trữ khá nhiều ở đấy. Hơn nữa, công tác lưu trữ ở Liên Xô có từ khá sớm, được bảo đảm tốt trên một cơ sở khoa học.
Không ít lần, trong khuôn khổ quan hệ giữa hai Đảng và hai Nhà nước của Liên Xô và Việt Nam, nhiều cán bộ của Việt Nam đã sang khai thác nguồn tài liệu này. Nhưng, thực sự “cơ chế” cứng nhắc, cái cơ chế gần như đóng từ phía Liên Xô đã không cho phép các cán bộ Việt Nam khai thác được gì nhiều trong kho tư liệu đó. Không riêng gì đối với Việt Nam mà Liên Xô còn áp dụng chung cái cơ chế đóng này cho tất cả những ai đến khai thác tài liệu lưu trữ ở đây, dù đã được thoả thuận qua cấp bộ Đảng, Nhà nước.
Liên Xô tan rã đầu những năm 90 của thế kỷ XX. Một cơ chế hoàn toàn mới, một cơ chế mở đối với kho lưu trữ Quốc tế Cộng sản đã được thực thi. Nhiều nhà nghiên cứu trên thế giới phần thì nhanh chân hơn, phần thì nhạy cảm thông tin hơn, phần thì nhiều tiền hơn, đã đặt chân đến kho lưu trữ Mátxcơva trước những cán bộ Việt Nam để khai thác những tài liệu, trong đó có những tài liệu về Hồ Chí Minh mà chưa từng được công bố.
Việt Nam lúc này, năm 1992-1993, theo tôi được biết, có ít nhất hai đoàn sang khai thác những tài liệu liên quan đến Đảng Cộng sản Việt Nam và Hồ Chí Minh tại kho lưu trữ Mátxcơva. Một đoàn của Cục lưu trữ thuộc Văn phòng Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam, một đoàn của Ban Chủ nhiệm Chương trình Khoa học và Công nghệ cấp nhà nước giai đoạn 1991-1995 “Nghiên cứu Hồ Chí Minh”, mã số KX.02.
Sau thời gian khai thác tài liệu từ nguồn này, cả ở trong và ngoài nước, người ta đã công bố một số tài liệu về Hồ Chí Minh mà từ trước đến lúc bấy giờ chưa được ai công bố, trong đó cải chính, đính chính lại một số bài viết của Hồ Chí Minh mà do trước đây chưa có tài liệu gốc để kiểm chứng cho chính xác. Một số tài liệu được bổ sung, đưa vào bộ Hồ Chí Minh Toàn tập gồm 12 tập được Nhà xuất bản Chính trị quốc gia xuất bản trong hai năm 1995, 1996 (Sau này, đến năm 2000, 2001, bộ sách Hồ Chí Minh Toàn tập được tái bản không sửa chữa, bổ sung)[18]. Ngày 18-5-2005, Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam, trong Quyết định số 142/QĐ-TW, đã chủ trương tổ chức tiến hành sưu tầm, xác minh, bổ sung các bài nói, bài viết của Hồ Chí Minh cho bộ Hồ Chí Minh Toàn tập, dự định sẽ xuất bản vào dịp kỷ niệm 120 năm Ngày sinh của Hồ Chí Minh, năm 2010.
Năm 2006, trong một lần đến thăm Bảo tàng Hồ Chí Minh tại Hà Nội, ông S.V. Xtépashin (Tổng Kiểm toán Liên bang Nga) đã có ấn tượng rất sâu sắc về những tư liệu, hiện vật tại Bảo tàng. Tính đến thời điểm năm 2006, Bảo tàng Hồ Chí Minh của Việt Nam đã lưu giữ được 130 000 tài liệu, hiện vật gốc về Hồ Chí Minh, trong đó trưng bày hơn 2 500 tài liệu, hiện vật. Theo đề nghị của S.V. Xtépashin, trong dịp Tuần lễ Cấp cao Diễn đàn châu á – Thái Bình Dương (APEC) từ ngày 12 đến ngày 19 tháng 11 năm 2006 ở Hà Nội và nhân đó thăm chính thức Việt Nam, Tổng thống Liên bang Nga Vlađimia Vlađimirôvích Putin đã trao cho Chủ tịch nước Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Việt Nam Nguyễn Minh Triết bộ phim tài liệu “Tên Người là Hồ Chí Minh”, nhiều bản sao tài liệu về Đảng Cộng sản Việt Nam và về Hồ Chí Minh từ kho lưu trữ của Đảng Cộng sản Liên Xô và Quốc tế Cộng sản trước đây.
Gần đây nhất là vào cuối tháng 11 đầu tháng 12 năm 2006, Đoàn cán bộ Bảo tàng Hồ Chí Minh thuộc Bộ Văn hoá – Thông tin Việt Nam (nay là Bộ Văn hoá, Thể thao và Du lịch) đã dành ra một tháng sang sưu tầm tài liệu tại Kho lưu trữ Lịch sử Chính trị Xã hội Liên bang Nga. Đoàn đã sưu tầm được 1 000 trang tài liệu trong số hàng vạn trang về Hồ Chí Minh. Đó là những bức thư, các bản báo cáo, bản thảo, bút tích, nhiều bài viết của Hồ Chí Minh những năm 1923 – 1952 chủ yếu bằng các thứ tiếng Pháp, Anh, Nga; những bài phát biểu của Hồ Chí Minh trên nhiều diễn đàn quốc tế; không ít giấy tờ cá nhân liên quan đến hoạt động của Người những năm 1922-1938 (thẻ dự các Đại hội Đảng Cộng sản Pháp, Đại hội Quốc tế Cộng sản, Đại hội Quốc tế Thanh niên, thị thực nhập cảnh nước Nga, hộ chiếu, một số bản khai lý lịch, v.v.). Có cả những đoạn phim tư liệu ghi dấu ấn của Hồ Chí Minh dự Đại hội V Quốc tế Cộng sản, Hội nghị Quốc tế nông dân. Vẫn còn hàng trăm thước phim tài liệu liên quan đến cuộc đời và sự nghiệp của Hồ Chí Minh có trong Kho lưu trữ này của Liên bang Nga. Đó là chưa kể có thể còn rất nhiều những tư liệu quý về Hồ Chí Minh đang lưu giữ tại nhiều kho lưu trữ ở các nước Anh, Pháp, Hoa Kỳ, Đài Loan… thậm chí ở trong một số cá nhân.
Cho đến hiện nay, tài liệu của Hồ Chí Minh (tức là chính những bài nói, bài viết của bản thân Hồ Chí Minh), tài liệu về Hồ Chí Minh (tức là những bài viết của nhiều người cả trong và ngoài nước Việt Nam về Hồ Chí Minh, trong đó có cả những bài viết đã được khuôn vào hàng sách giáo trình, tập bài giảng chung, cũng như giáo trình dùng trong các học viện, các trường đại học và cao đẳng) có tương đối nhiều.
Lại có một dạng sách tham khảo nữa là các chuyện kể có liên quan đến Hồ Chí Minh. Các chuyện kể này là hồi ký, hồi tưởng của những người cùng hoạt động với Hồ Chí Minh, của những người được một hay nhiều lần gặp Hồ Chí Minh. Thậm chí, lạ thay, cả của những người chưa từng gặp Hồ Chí Minh lần nào lại biên soạn những chuyện kể về Hồ Chí Minh.
Hồ Chí Minh là con người của hành động. Có nhiều khi quan điểm của Người, tư tưởng của Hồ Chí Minh lại phát tiết từ chính hành động chứ không từ sách, báo của Người, không từ lời nói của Người. Do đó, những chuyện kể đóng góp một phần quan trọng nào đó cho việc tìm hiểu Hồ Chí Minh. Những bài viết, những cuốn như của T. Lan “Vừa đi đường vừa kể chuyện” hay của Trần Dân Tiên “Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ tịch” (đang nghi là do chính Hồ Chí Minh viết), v.v. hay những bài báo, những cuốn sách kể chuyện hoặc viết về cuộc sống thường nhật của Hồ Chí Minh cũng rất quý. Một điều tôi cần nêu ở đây là, mặc dù tài liệu của Hồ Chí Minh và về Hồ Chí Minh nhiều như vậy nhưng vẫn còn nhiều tài liệu vẫn còn đang ở dạng nghi vấn, nhiều tài liệu về Hồ Chí Minh, nhiều chuyện kể (hồi ký, hồi tưởng) về Hồ Chí Minh còn chưa đạt được tính chân xác. Điều này là dễ thấy. Trí nhớ của con người, động cơ của người đưa tin khác nhau. Không nói đâu xa, ngay cả những sự kiện, không phải sự kiện nhỏ mà sự kiện lớn hẳn hoi, diễn ra cách đây không lâu lắm, chẳng hạn sự kiện ở Dinh Độc Lập (Sài Gòn) trưa ngày 30-4-1975, mà mỗi người nhớ một phách, ỏm tỏi lên, ai cũng bảo là mình đúng.
Cần đẩy mạnh hơn nữa công tác sưu tầm, xử lý những tài liệu liên quan đến Hồ Chí Minh cả ở trong và ngoài nước, không nên vì vấn đề eo hẹp kinh phí để buông lỏng việc này. Việc sưu tầm những tư liệu, hiện vật của Hồ Chí Minh, về Hồ Chí Minh vẫn đang còn ở phía trước, chủ yếu là ở các kho lưu trữ nước ngoài, ở những cá nhân nào đó trên khắp bốn phương trời vì vốn dĩ Hồ Chí Minh có lẽ là một người hoạt động chính trị đi nhiều nhất các nước trên thế giới (khoảng gần 40 lượt nước trong vòng 30 năm, từ năm 1911 đến năm 1941). Chúng ta mới biết được những điều chủ yếu nhất trong sự nghiệp cách mạng của Hồ Chí Minh, còn những chi tiết của cuộc đời Hồ Chí Minh, có lẽ khó mà biết được một cách hoàn toàn.
Hai là, còn khá nhiều “khoảng trống” về cuộc đời, sự nghiệp của Hồ Chí Minh chưa được làm rõ.
Chính vì còn có nhiều “khoảng trống” về Hồ Chí Minh chưa được nghiên cứu làm rõ cho nên vô hình trung có “đất trống” cho những kẻ xuyên tạc hoạt động mạnh. Tôi chỉ lấy một thí dụ về chuyện đời tư, về chuyện Hồ Chí Minh có hay không có vợ con thôi để thấy rõ mặt này. Cho đến nay, chưa có một công trình chính thức nào khẳng định một cách mạnh mẽ rằng: dứt khoát Hồ Chí Minh không có vợ con. Ngay cả những cuốn tiểu sử Hồ Chí Minh ở trong nước cũng chưa thật sự có điểm nhấn để khẳng định điều này. Năm 2005, có một đồng chí ở Ban Tư tưởng-Văn hoá Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam (nay là Ban Tuyên giáo Trung ương) nói với tôi rằng, trên mạng internet có rất nhiều bài viết xuyên tạc cuộc đời và sự nghiệp của Hồ Chí Minh. Tôi nói lại với đồng chí ấy rằng, việc xuyên tạc cuộc đời và sự nghiệp của Hồ Chí Minh không phải đến bây giờ người ta mới làm, mà đã diễn ra từ lâu rồi. Để làm cho người ta hiểu một cách đúng đắn về Hồ Chí Minh, tôi nói với đồng chí ấy rằng, cách tốt nhất là nên xuất bản cuốn sách viết về tiểu sử thật sự khoa học, đầy đủ về Hồ Chí Minh. Tôi biết rằng, vào các năm 1995, 1996, Chương trình khoa học cấp nhà nước giai đoạn 1991–1995 KX.02 “Nghiên cứu Hồ Chí Minh” có một đề tài nghiên cứu, biên soạn tiểu sử Hồ Chí Minh do Giáo sư Song Thành làm Chủ nhiệm. Sản phẩm chính của đề tài này là bản “Hồ Chí Minh – Tiểu sử” đã được nghiệm thu; nhưng vì nhiều lý do, mãi cho tới lúc đó, năm 2005, chưa được xuất bản. Ý kiến của tôi là như vậy. Sau đó một thời gian, Ban Tư tưởng-Văn hoá Trung ương đề nghị Ban Bí thư Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam Khoá IX cho thẩm định lại bản thảo công trình này để xuất bản thành sách. Ban Bí thư Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam Khoá IX giao cho Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh (nay là Học viện Chính trị-Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh) cùng với Ban Tư tưởng-Văn hoá Trung ương giải quyết vấn đề này. Sở dĩ như vậy là vì đây là công trình khoa học thuộc Viện Nghiên cứu chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh quản lý mà Viện này sau đó đã sáp nhập cùng Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh thành Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh. Theo đề nghị của Ban Tư tưởng-Văn hoá Trung ương và Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, ngày 19-1-2006, Ban Bí thư Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam Khoá IX đã ra Quyết định số 156-QĐ/TW thành lập Hội đồng thẩm định và xuất bản tác phẩm “Hồ Chí Minh – Tiểu sử”.
Cuốn sách “Hồ Chí Minh – Tiểu sử” do Nhà xuất bản Lý luận chính trị (nay là Nhà xuất bản Chính trị – Hành chính) xuất bản đầu tiên theo Giấy phép xuất bản số 48-2006/CXB 01-01/LLCT ngày 12-1-2006 với số lượng 3000 cuốn, 758 trang khổ 15 cm x 22 cm, bìa cứng, nộp lưu chiểu tháng 4 năm 2006. Đây là cuốn sách mới nhất về tiểu sử Hồ Chí Minh được viết một cách công phu, tương đối chi tiết tiếp nối cuốn tiểu sử tóm tắt về Hồ Chí Minh trước đây do Ban Nghiên cứu Lịch sử Đảng Trung ương biên soạn và được Nhà xuất bản Sự Thật xuất bản. Thực ra, tác phẩm tiểu sử Hồ Chí Minh mới nhất này cũng đã đưa ra được thông tin rằng, Hồ Chí Minh không có vợ con nhưng bằng cách không đề cập tới vấn đề này. Lẽ ra, theo tôi, với dạng viết tiểu sử, nên đề cập nhiều hơn đến đời tư, đời riêng của Hồ Chí Minh, trong đó có ý khẳng định thật rõ, thật chắc chắn là Hồ Chí Minh không có vợ con. Với cuốn sách này, về thực chất suy cho cặn kẽ thì vấn đề vợ con của Hồ Chí Minh vẫn đang bị bỏ ngỏ.
Ba là, cần chú ý cải tiến phương pháp nghiên cứu Hồ Chí Minh cho phù hợp.
Những tài liệu của Hồ Chí Minh và về Hồ Chí Minh từ các nguồn khác nhau, trong đó đặc biệt là từ các kho lưu trữ, thật đáng quý. Nhưng, dù chúng đáng quý như thế nào đi chăng nữa thì cũng cần được thẩm định, được nhận thức một cách đúng đắn qua tư duy của người nghiên cứu. Những tài liệu lưu trữ là những chứng cứ, song những chứng cứ ấy bao giờ cũng bị chế định bởi hoàn cảnh lịch sử và muôn vàn yếu tố khác nữa. Nó chưa hoàn toàn là sự thật. Nó chỉ là một mảnh ghép nào đó thôi của sự thật. Do vậy, mới có tình trạng là tài liệu cùng một nguồn nhưng nhận thức, đánh giá của một số người lại trái ngược nhau.
Sự thật là những điều mà ai cũng có thể thấy rõ trong cuộc sống. Nhưng, không ít những sự thật bị che dấu, che lấp, bị nằm lẫn trong vô vàn cái sự rối cuộc đời. Có khi sự thật đã trở thành một thứ “trầm tích” mà nếu muốn biết rõ, hiểu rõ thì phải khai nó lên. Khác và đối lập với sự thật là những điều giả dối, xuyên tạc.
Ấy thế nhưng xem ra, tôi có cảm tưởng rằng, một số người khi trình bày, thể hiện về Hồ Chí Minh không có được phương pháp phù hợp. Có không ít người viết về Hồ Chí Minh không theo lối viết giản dị, dễ hiểu như chính bản thân con người Hồ Chí Minh, cuộc đời Hồ Chí Minh. Có không ít người nói và viết về Hồ Chí Minh cứ rối rối thế nào ấy. Chỗ này của Hồ Chí Minh lẽ ra chỉ là thế này, đơn sơ, mộc mạc như thế này thôi thì người ta lại cứ “phóng” lên, có khi rất đại ngôn. Xem ra không phải. Mà có khi lại hiện đại hoá, thái quá. Có khi lại mang dáng ra vẻ là triết học đây, trừu tượng hoá. Điều mộc mạc của Hồ Chí Minh phát biểu đấy, nhưng mà lại làm cho ra phức tạp, khó hiểu (phức tạp hoá cái điều đơn giản). Có tác giả tư biện quá, hễ viết thì “nện” những câu, những đánh giá rất cao siêu, từ ngữ hoa lá cành sáo rỗng, rồi ra dáng trừu tượng triết học khó hiểu. Mà như vậy kết quả là chỉ làm cho người đọc đi đến chỗ hiểu sai mà thôi. Đồng thời những điều đó làm cho những người có ý đồ xấu dễ đi đến xuyên tạc Hồ Chí Minh.
Lại nữa. Có không ít người khi viết bài, khi giảng bài, hễ bất kể cái gì của Hồ Chí Minh cũng cứ gọi là “Tư tưởng Hồ Chí Minh về…”. Thành ra như vậy lại là tầm thường hoá tư tưởng Hồ Chí Minh. Tôi đã thử thống kê, đã có khoảng hơn 70 cách gọi “Tư tưởng Hồ Chí Minh về…”. Đã có cả cách gọi “Tư tưởng Hồ Chí Minh về phòng và chống bão lụt”. Đã có cả cách gọi “Tư tưởng Hồ Chí Minh về người khiếm thị”, v.v. Làm như thế có đúng không và có nên không?
Tôi đã xem không ít bức tượng Hồ Chí Minh, nhiều nhất là những bức tượng Hồ Chí Minh bằng thạch cao thường được đặt một cách trang trọng trong phòng họp của các đơn vị, các cơ quan. Rất, rất nhiều bức tượng xem ra không thật giống Hồ Chí Minh lắm. Hao hao, từa tựa Hồ Chí Minh vậy thôi. Một số người đề nghị được vẽ tranh, đắp tượng Hồ Chí Minh. Hồ Chí Minh không bằng lòng, bảo là nên vẽ tranh, đắp tượng nhân dân chứ Người không có gì đặc biệt cả. Nhưng rồi có lúc cũng phải chiều lòng một vài người. Có lần, một nghệ sĩ cứ mỗi ngày vào nhà sàn 1 tiếng đồng hồ ngắm trực tiếp để đắp tượng Hồ Chí Minh. Một thời gian sau, bức tượng hoàn thành, người nghệ sĩ đó mang bức tượng đến cho Hồ Chí Minh xem. Khi xem bức tượng, Hồ Chí Minh nói đùa rằng: đây là bức tượng em của Hồ Chí Minh. Có nơi dựng tượng Hồ Chí Minh, nhưng éo le thay, lại không giống lắm, nếu bỏ đi thì lại “có chuyện” vì bức tượng đó đã ở tại vị trí ấy từ lâu rồi, người ta đã quen rồi, giờ bỏ đi sao đành. Có người vì vẽ không giống Hồ Chí Minh, đắp tượng không giống Hồ Chí Minh, thì lại ngụy biện rằng, hình của Hồ Chí Minh đã trở thành hình của nước, cho nên chẳng giống lắm thì không sao.
Hồ Chí Minh, cũng như bao con người khác, có những điều mà những người chung quanh, và hậu thế không hiểu hết được. Cần tuân thủ phương châm: biết thì nói là biết, không biết thì nói là không biết, không được suy diễn lung tung về Hồ Chí Minh (Đây là ý của Khổng Tử cách ngày nay hơn hai nghìn năm: Tri chi vi tri chi, bất tri vi bất tri, thị tri dã. Nghĩa là: Biết thì nói là biết, không biết thì nói là không biết, chính như thế mới gọi là biết). Trong tình hình hiện nay, người ta suy diễn về Hồ Chí Minh quá nhiều, trong suy diễn ấy, có cả sự lợi dụng để xuyên tạc, bôi xấu, hoặc lại sang một cực khác, quá đề cao mà thực ra, nói như ông Việt Phương, không phải để cộng vào mà lại trừ đi của Hồ Chí Minh những điều mà Hồ Chí Minh đang có.
Trong phương pháp nghiên cứu, nên chú ý để không mắc phải căn bệnh thần thánh hoá Hồ Chí Minh như chúng ta vẫn thấy ở không ít tác phẩm. Việc giải thích điều này có cái khó của nó. Ý dân và lòng dân thì đã phong thánh cho Hồ Chí Minh một cách tự nhiên rồi. Nhưng, giữa vấn đề dân phong thánh cho Hồ Chí Minh với vấn đề trong nghiên cứu tránh việc thần thánh hoá Hồ Chí Minh là hai chuyện khác nhau.
Thường thì ở đời, ngợi ca thì dễ, chê bai thì khó, vì chê là khó lọt cái lỗ tai con người lắm. Khen đúng, chê đúng mới là điều cần làm. Khi đã thiên lệch, thì có khi người ta khen hết lời, dùng những tính từ đẹp nhất, dùng đại ngôn để gán cho một người nào đó mà mình muốn khen. Cũng có khi thiên lệch thì lúc chê, người ta chê hết lời, bôi đen, nói xấu từ đầu tới chân. Sự thật là tiêu chuẩn cao nhất mà nhà khoa học nói chung cũng như nhà sử học nói riêng phải tôn trọng. Trình bày đúng sự thật như con người Hồ Chí Minh vốn có thì không dễ dàng một chút nào. Trong việc này, tôi không bàn đến người nghiên cứu có trong tay số lượng và chất lượng các tài liệu cần thiết, là bột để “gột nên hồ”, tuy rằng điều này là thực sự cần thiết mà thiếu nó thì nhà khoa học không thể dựng lại được một bức tranh toàn cảnh đúng như nó có. Cái phần quan trọng không kém là nhà khoa học không được tô hồng hay bôi đen sự thật. Đây chính là tư cách đích thực của nhà khoa học mà nếu vi phạm thì người đó không còn là nhà khoa học nữa.
Bản chất của cả hai khuynh hướng tô hồng hay bôi đen chỉ là một: đó là sự bóp méo, sự làm sai lệch sự thật lịch sử. Không phải là việc bôi đen có hại hơn việc tô hồng, mà cả hai đều có hại như nhau. Đừng tưởng bất cứ sự ngợi ca nào đều là cộng vào cho Hồ Chí Minh. Sự ngợi ca không có cơ sở chắc chắn, không khoa học, mà tôi gọi đó là sự tô hồng, thì, như đã viết theo lời của ông Việt Phương trên đây, đều trừ đi chứ không thể nào là cộng vào cho Hồ Chí Minh.
Hồ Chí Minh đi vào đời sống tâm linh của nhân dân Việt Nam là bởi cái nhân, cái nghĩa, cái trí, cái dũng, cái liêm, cái tín của Người đã cảm hoá được ý thức văn hoá đa thần của nhiều người Việt Nam. Người ta tôn thờ Hồ Chí Minh, thắp hương trên bàn thờ, treo ảnh Hồ Chí Minh để thờ, lập đền thờ…là lẽ tự nhiên của tâm linh, của thái độ ứng xử của người Việt Nam đối với Hồ Chí Minh. Đó là “văn hoá đền”, văn hoá tâm linh. Đó là sự tự cảm từ mỗi con tim mỗi người, là ý thức cộng đồng với những người đã khuất, mong người đã khuất đi theo người đang sống, chở che, răn dạy những người đang sống.
Hồ Chí Minh đi vào lòng người dân không thần bí, không huyền thoại, tuy rằng, nhiều câu chuyện kể về Hồ Chí Minh có vẻ đượm màu huyền thoại. Hồ Chí Minh hiện hữu như một nhân vật cùng với hiện tại, khi mà con người ta sống, để người ta cầu mong và hành động như Hồ Chí Minh, vì những điều thánh thiện.
Trong nghiên cứu Hồ Chí Minh, điều thích hợp hơn cả là tuân thủ nguyên tắc lịch sử – cụ thể, là xem xét một cách toàn diện các mối liên hệ lịch sử cơ bản. Phải xem xét Hồ Chí Minh trong một chỗ đứng cụ thể và sự phát triển của các quan điểm của Hồ Chí Minh ra sao. Có người nói với tôi rằng, nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh không chỉ nghiên cứu những hệ thống quan điểm của chính bản thân Hồ Chí Minh mà còn nghiên cứu thông qua cả những quan điểm các học trò của Người: Trường-Chinh, Lê Duẩn, Phạm Văn Đồng, Võ Nguyên Giáp, v.v. giống như đối với học thuyết của Khổng Tử thì không chỉ phát tiết từ Khổng Tử mà còn thông qua các học trò của Khổng Tử. Tôi thì chưa chắc lắm có đồng ý hay không với ý kiến đó, nhưng có một điều chắc chắn là Hồ Chí Minh là một thực thể trong một hoàn cảnh lịch sử cụ thể nhất định. Hồ Chí Minh bị thực tế lịch sử chế định, và chính bản thân Hồ Chí Minh cũng chế định lại lịch sử. Hồ Chí Minh có những thành công trong cuộc sống nhưng Hồ Chí Minh cũng có những điểm không thành công, những hạn chế chủ quan. Đúng là nhân vô thập toàn. Bởi vì, chính bản thân Hồ Chí Minh cũng quan niệm: người đời ai cũng có khuyết điểm cả, không nhiều thì ít, không lớn thì bé; trừ khi người ta nằm trong bụng mẹ và cái lúc người ta nằm trong quan tài, còn lại trong cuộc đời mọi người đều có khuyết điểm.
Trong nhiều bài viết về Hồ Chí Minh, tôi thấy nhiều người đã dùng những từ sau đây để đánh giá Hồ Chí Minh: thiên tài, vĩ đại, lỗi lạc, kiệt xuất. Có lẽ bốn “cặp” này là đã đánh giá Hồ Chí Minh ở vào vị trí tột đỉnh rồi, không có từ nào có thể hơn. Đánh giá như vậy, xét về mặt nào đó, là không sai. Tuy nhiên, tôi không thích đại ngôn như vậy. Hãy từ chính bản thân sự việc, con người của Hồ Chí Minh toát lên những từ ngữ của các “cặp” đó.
Thần thánh là những “nhân vật” không có thực, nếu có thì từ con người có thực nào đó, người ta đã làm cho linh thiêng con người đó lên (tâm linh hoá), con người đã khái quát, trừu tượng hoá theo cảm nhận riêng. Nếu thần thánh hoá Hồ Chí Minh trong nghiên cứu cuộc đời, sự nghiệp của Hồ Chí Minh thì rất dễ biến những lời nói, những quan điểm của Hồ Chí Minh thành những công thức định sẵn, xơ cứng, như giáo lý nào đấy- điều mà Hồ Chí Minh rất kỵ và đã không ít lần nhắc nhở là: đối với bất kỳ điều gì, của ai, của nước nào, cũng phải sáng tạo, phát triển, vận dụng cho phù hợp với từng lúc, từng nơi. Thần thánh hoá là lối nghiên cứu dễ dãi nhất và dẫn đến sai lầm lớn nhất.
Cái điều mà nhiều người đã viết Hồ Chí Minh là vĩ đại, là thiên tài, là lỗi lạc, là kiệt xuất hoá ra nhiều khi lại biểu đạt trong những hành động rất bình dị nhưng cũng đầy cảm động mà Hồ Chí Minh đã làm.
Đó là cử chỉ đi dém chăn cho bộ đội ngoài mặt trận để bộ đội có giấc ngủ ngon trong đêm đông. Đó là nỗi nhớ thương của Hồ Chí Minh đối với đoàn dân công đêm phải ngủ ngoài rừng. Đó là những bữa Hồ Chí Minh nhịn ăn để dành gạo cứu những người đang đói khi nước nhà mới giành được độc lập. Đó là những bức thư chia buồn, động viên, những buổi đi thăm các thương binh, gia đình liệt sĩ, gia đình có công với nước. Đó là những buổi Hồ Chí Minh lội ruộng cấy lúa bằng máy cấy thí nghiệm, những buổi tát nước gầu dai, đạp nước gầu guồng chống hạn. Đó là những buổi cùng bà con ngư dân Thanh Hoá kéo rùng đánh cá nhân dịp đi nghỉ ở biển Sầm Sơn. Đó là những buổi lội ruộng thăm bà con nông dân, lấy gang tay ước đo rễ cây lúa. Đó là những buổi trầm ngâm làm thơ khi trăng vào cửa sổ. Đó là hình ảnh Hồ Chí Minh cầm bó hoa hoặc một bông hoa tặng cho cháu gái và cho khách nước ngoài. Đó là hình ảnh Hồ Chí Minh chẻ củi, hình ảnh vác cuốc đi tăng gia sản xuất. Đó là hình ảnh Hồ Chí Minh đang gõ máy chữ tuôn ra những dòng chữ phục vụ cho quốc kế dân sinh. Đó là dáng Hồ Chí Minh cưỡi ngựa hiền, con ngựa do đích thân ông Vi Văn Định chọn cho, thoăn thoắt đi công tác ở chiến khu Việt Bắc. Đó là hình ảnh Hồ Chí Minh đi bài quyền giản lược, những buổi Hồ Chí Minh tập võ thuật cùng anh em cảnh vệ. Đó là những buổi Hồ Chí Minh đánh bóng chuyền với anh em cơ quan, mà anh em hay đùa Hồ Chí Minh bằng cách cứ được bóng là bỏ nhỏ tới vị trí Hồ Chí Minh đang đứng làm cho Người cứ loay hoay trong sân bóng. Đó là hình dáng Hồ Chí Minh lịch thiệp, hào hoa, rất tây, nhanh nhẹn “vít cổ” những người bạn nước ngoài để ôm hôn thắm thiết. Đó là lần Hồ Chí Minh cầm gậy chỉ bản đồ chiến sự. Đó là dáng hạc của Hồ Chí Minh đích thân đi Chiến dịch Biên Giới năm 1950. Đó là ánh mắt bừng sáng của Hồ Chí Minh khi tiếp các cháu thiếu niên, nhi đồng. Đó là dáng “nhạc trưởng” Hồ Chí Minh hiền hoà cầm đũa chỉ huy dàn nhạc bài “Kết đoàn” ở vườn Bách thảo (Hà Nội) năm 1960. Đó là hình Hồ Chí Minh ngồi khoan thai, đĩnh đạc chủ trì cuộc họp của Bộ Chính trị Trung ương Đảng. Đó là tiếng nói ấm, vang như tiếng chuông của Hồ Chí Minh khi đọc lời kêu gọi đồng bào và chiến sĩ cả nước. Đó là cái nheo mắt nhìn về phương nam xa xôi, là nỗi suy tư, trăn trở của Hồ Chí Minh về miền Nam, Hồ Chí Minh tự nhận mình là người chưa làm tròn nhiệm vụ đối với đồng bào miền Nam, “đi đến nơi nhưng về chưa đến chốn”. Đó là niềm rạng rỡ trong ánh mắt, nét mặt của Hồ Chí Minh khi nhận được tin chiến thắng miền Nam.
Vân vân và vân vân.
Tôi cảm thấy rằng, phương pháp tiếp cận, nghiên cứu, viết về Hồ Chí Minh cũng dễ mà cũng khó. Dễ là bởi vì những điều Hồ Chí Minh sống và làm việc, những điều Hồ Chí Minh nói và viết là những lời lẽ của bình dân. Khó là bởi vì, cuộc đời Hồ Chí Minh chính là phản ánh những điều cao cả qua những cái bình dị. Hồ Chí Minh như mọi người chúng ta mà thôi, nhưng cũng khác chúng ta bởi vì Hồ Chí Minh làm được tất cả những điều bình dị mà cao cả ấy một cách tự nhiên, hầu như dễ dàng như hít thở khí trời, như sinh ra là để làm những điều như vậy. Hồ Chí Minh là con người bằng xương bằng thịt ở ngay trước mắt chúng ta, ở trong tâm khảm của mỗi người Việt Nam yêu nước, chứ không phải là điều tưởng tượng, không phải thánh thần quanh quất đâu đây.
Một số người nước ngoài, trong đó có cả nhà khoa học và nhà bình luận chính trị, không hiểu được hết tấm lòng người dân Việt Nam yêu nước đối với Hồ Chí Minh. Do đó, trong một số bài viết, trong một số sách của họ viết về Việt Nam, viết về Hồ Chí Minh, có lúc họ thiên về cái ý là ở Việt Nam có sùng bái cá nhân Hồ Chí Minh. Hiểu sùng bái cá nhân là hiểu theo nghĩa xấu, như ở trên thế giới đã có một số người được sùng bái cá nhân như vậy, rồi thì cuộc đời của họ về sau chẳng ra làm sao cả. Đối với Hồ Chí Minh ở Việt Nam, tuyệt nhiên không có tệ sùng bái cá nhân, không có sự thúc ép của bất kỳ tổ chức nào, mà đó là sự tự thôi thúc của bao con tim, khối óc của đồng bào của mình mà Hồ Chí Minh đã gắn bó.
Lòng người khó đo. Đúng như thế. Chẳng có cái thước nào đo được lòng người. Nhưng tấm lòng của nhân dân Việt Nam đối với Hồ Chí Minh thì đã được thử thách qua bao nhiêu năm tháng của cuộc đời, có thể đo được một cách rõ ràng. Vì thế, Hồ Chí Minh đã đi vào cõi bất tử. Nói thế cho có văn có vẻ, nhưng nôm na thì hình ảnh Hồ Chí Minh có trong tấm lòng của những người Việt Nam yêu nước qua các thế hệ kế tiếp nhau. Đặc biệt, Hồ Chí Minh – cuộc đời, sự nghiệp, tư tưởng, đạo đức, tác phong của Người — đã trở thành giá trị văn hoá của dân tộc Việt Nam. Mà khi đã trở thành giá trị văn hoá thì chúng thẩm thấu và truyền một cách tự nhiên theo chiều dài sự phát triển của dân tộc. Hơn thế, những giá trị văn hoá đó được bảo tồn và phát huy thêm qua bao nhiêu năm tháng như dòng sữa mẹ nuôi con người ta lớn lên. Hồ Chí Minh đã trở thành giá trị văn hoá trong tài sản văn hoá của dân tộc. Giá trị đó là bất diệt vì nó có ích, nó thẩm thấu, nâng cao nền văn hoá Việt Nam cả trong tương lai. Nghiên cứu Hồ Chí Minh ngoài việc cần phương pháp khách quan khoa học, còn có cả tình cảm, nhưng như thế không có nghĩa là thoát ly khỏi những phương pháp đúng đắn cần có của một chuyên ngành khoa học: Hồ Chí Minh học.
2. Tăng cường giáo dục, tuyên truyền về Hồ Chí Minh
Một điều kiện tiên quyết mà tôi muốn nêu ở đây là giáo dục, tuyên truyền về Hồ Chí Minh phải dựa trên cơ sở khoa học. Nếu không như vậy thì giáo dục, tuyên truyền sẽ phản tác dụng, sẽ có hại, thà rằng đừng tiến hành. Việc giáo dục, tuyên truyền về Hồ Chí Minh nên chú ý trên những mặt sau đây:
Một là, đưa những vấn đề Hồ Chí Minh học vào trường học các hệ, các cấp, theo đặc điểm, yêu cầu phù hợp.
Đây là một chủ trương hiện nước ta đang tiến hành. Song, cái khó nhất là làm như thế nào cho phù hợp với cấp độ của các hệ thống trường học và mức độ như thế nào, phương pháp ra sao. Rõ ràng là cần có sự nghiên cứu tổng thể để đề ra cho từng loại hình, có tính đến đặc điểm của chúng. Không nên như gần đây Bộ Giáo dục và Đào tạo có ý tưởng đưa ra lấy ý kiến về chuẩn cho trẻ em các độ tuổi, trong đó có trẻ em 3 tuổi “phải biết yêu kính Bác Hồ”. Đưa thành các bài học cho các lớp, nhưng không nhất thiết nhất loạt như nhau, không cứng nhắc. Lẽ nào trong chương trình cho học sinh tiểu học chẳng hạn, lại có những bài dài, toàn lý thuyết là lý thuyết về tư tưởng Hồ Chí Minh để rồi lại theo kiểu nhồi nhét, bắt học thuộc lòng. Có khi những tranh vẽ, những thước phim về Hồ Chí Minh, những buổi tham quan di tích lịch sử liên quan đến Hồ Chí Minh lại có tác dụng rất lớn hơn là cứ giảng thao thao bất tuyệt trên bục giảng. Ngay cả ở cấp đại học, ở loại hình trong hệ thống các trường chính trị, trường quân đội, công an cũng vậy. Cần tránh giáo dục theo lối cứng nhắc, thô thiển như không ít trường hợp hiện nay về Hồ Chí Minh. Muốn thế, như tôi đã đề cập ở bên trên: cần có sự nghiên cứu tổng thể, thiết kế chương trình thích hợp với phương pháp giáo dục tiên tiến, khơi động sự hứng thú của cả đội ngũ thày cô giáo và học sinh. Có được và thấm được những tri thức đúng đắn và tình cảm trong sáng vào trong đầu các thế hệ học sinh thì việc nhận thức đúng đắn và tự mình phản bác lại những luận điệu xuyên tạc Hồ Chí Minh của những người xấu là điều không khó. Khi ai đó có mở mạng internet bắt gặp những thông tin, những bài xuyên tạc Hồ Chí Minh thì người ta có thể tự nhận thức một cách đúng đắn được ngay vì ở họ đã có sức đề kháng do được trang bị những tri thức chính xác, tình cảm trong sáng về Hồ Chí Minh.
Hai là, giáo dục, tuyên truyền trong các tổ chức của hệ thống chính trị một cách thích hợp.
Nên tính tới đặc điểm của từng tổ chức trong hệ thống chính trị, từng lứa tuổi để có cách tuyên truyền thích hợp. Nên có sự tổng kết thật sự khách quan, khoa học, đánh giá thật sự đúng đắn về cách tuyên truyền bằng việc “kể chuyện” về tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh như vừa qua. Làm như vừa qua, cái hay đã được khẳng định nhiều, nhưng cái không hay chưa được nêu và phân tích một cách thấu đáo. Chính qua những điều chưa hay, chưa đạt đó có phần vô tình tạo thêm kẽ hở để một số kẻ xấu tiếp tục xuyên tạc về Hồ Chí Minh. Có một số câu chuyện về Hồ Chí Minh không dựa trên cơ sở khoa học và thực tế xác đáng. Vì là những câu chuyện cho nên một số người còn có ý “thêu dệt”, hư cấu…làm cho sức thuyết phục người nghe yếu đi và để kẻ xấu lợi dụng.
Ba là, tăng cường hơn nữa công tác tuyên truyền đối ngoại.
Cần tăng cường giao lưu, hợp tác nghiên cứu khoa học, trao đổi học thuật với những người nước ngoài, nhất là với những nhà nghiên cứu khoa học đang quan tâm tìm hiểu Hồ Chí Minh. Cho đến hiện nay, việc này đang còn nhiều hạn chế. Sự trao đổi học thuật là một trong những biện pháp tốt để tăng cường sự hiểu biết đúng đắn về Hồ Chí Minh, trong đó có việc sưu tầm, xử lý những tài liệu có liên quan đến Hồ Chí Minh.
Những người nghiên cứu có tâm ở ngoài nước về Hồ Chí Minh không ít. Họ có thể là học giả có phương pháp nghiên cứu khác nhau, dựa trên những tài liệu khác nhau để cho ra những công trình nghiên cứu, trong đó có những nhận định về Hồ Chí Minh khác nhau. Vấn đề là cần trao đổi học thuật thông qua các tổ chức hội thảo, toạ đàm khoa học quốc tế về Hồ Chí Minh; thông qua các cuộc trao đổi song phương, đa phương, trao đổi tài liệu, thông qua nhiều cuộc gặp gỡ, v.v. Thường là những cuộc tiếp xúc trực tiếp của các nhà hoạt động chính trị và nhà khoa học trên thế giới về Hồ Chí Minh cho kết quả tốt nhất trong đánh giá xác thực về Hồ Chí Minh.
Bốn là, hình thành một tổ chức quần chúng rộng rãi về nghiên cứu, giáo dục, tuyên truyền về Hồ Chí Minh.
Đầu những năm 90 của thế kỷ trước, sau khi Đại hội VII của Đảng Cộng sản Việt Nam nêu cao tư tưởng Hồ Chí Minh, giới nghiên cứu khoa học trong nước đã đề nghị những người có trách nhiệm trong Đảng cho phép thành lập “Hội nghiên cứu Hồ Chí Minh”. Đề nghị này xuất phát từ tình cảm của nhân dân và giới trí thức đối với Hồ Chí Minh; từ xu thế các hội quần chúng, hội nghề nghiệp đang có đà phát triển mạnh; từ yêu cầu phải nghiên cứu cả bề rộng lẫn bề sâu cuộc đời, sự nghiệp Hồ Chí Minh; từ nhu cầu tăng cường hơn nữa việc tuyên truyền sâu rộng Hồ Chí Minh trong các tầng lớp nhân dân Việt Nam cũng như đối với người Việt Nam ở nước ngoài, v.v. Rất tiếc là đề nghị này không được chấp nhận. Rất có thể có nhiều lý do khác nhau, trong đó có cả lý do là vào giai đoạn đó, vấn đề này (cả vấn đề thành lập Hội Triết học nữa) rất nhạy cảm, dễ xảy ra những nội dung liên quan đến đa nguyên chính trị…
Tình hình hiện nay đã có khác trước nhiều. Chúng ta đã có nhiều kết quả nghiên cứu về Hồ Chí Minh. Giá trị tư tưởng Hồ Chí Minh đã được thực tế lịch sử cách mạng Việt Nam nói chung và của những năm đổi mới chứng minh là rất đúng đắn, thực sự là tài sản tinh thần to lớn, quý báu của Đảng Cộng sản và dân tộc Việt Nam. Trong giai đoạn này, Đảng Cộng sản Việt Nam đang chỉ đạo tiến hành cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”. Cho nên, việc có được một hội như Hội nghiên cứu Hồ Chí Minh là một yêu cầu cần thiết. Hội này cùng sát cánh cùng những hội khác trong hệ thống các hội chính trị-xã hội, như các Hội Sử học, Liên hiệp hội Văn học-Nghệ thuật, v.v. hình thành nên một mạng lưới đắc dụng giáo dục, tuyên truyền Hồ Chí Minh. Tôi tin rằng, nếu Hội này được thành lập thì chắc chắn việc nghiên cứu, giáo dục, tuyên truyền Hồ Chí Minh sẽ có tác dụng tốt, tạo điều kiện thuận lợi cho cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” có hiệu quả hơn.
3. Tăng cường đấu tranh trực diện với các luận điệu xuyên tạc Hồ Chí Minh
Các công trình khoa học đúng đắn về Hồ Chí Minh cả ở trong nước và ngoài nước được công bố tự nó là những mũi tiến công vào những luận điệu xấu, luận điệu xuyên tạc về Hồ Chí Minh. Nhưng, chừng ấy thôi chưa đủ. Rất cần có cả những bài viết, những tác phẩm đấu tranh trực diện để chống lại những luận điệu đó.
Có người cho rằng, những luận điệu xuyên tạc với cái tâm xấu ấy, những giọng điệu cực đoan, chửi rủa, “hàng tôm hàng cá” ấy không đáng để chúng ta viết bài chống lại; cách tốt nhất là hãy cứ “lờ” đi, chỉ cần có những công trình nghiên cứu nghiêm chỉnh, đúng đắn về Hồ Chí Minh là đủ, v.v. Vấn đề không đơn giản như vậy. Tôi nghĩ rằng, trong tình hình hiện nay, rất cần thiết phải có những bài viết trực diện phản bác lại những luận điệu xuyên tạc cuộc đời, sự nghiệp, tư tưởng Hồ Chí Minh. Đáng tiếc là “mặt trận” này xưa nay ở nước ta còn quá yếu ớt. Do vậy, muốn đấu tranh chống lại những luận điểm xuyên tạc cuộc đời, sự nghiệp, tư tưởng Hồ Chí Minh, cần đẩy mạnh hơn nữa công bố những bài viết phản bác trực diện trên các phương tiện thông tin đại chúng. Vấn đề còn lại là ở chỗ cách thể hiện như thế nào.
Trong khuôn khổ của chuyên đề này, tôi xin nêu lên một số biện pháp sau đây:
Một là, chú ý đến đối tượng phản bác.
Tôi thấy nhiều bài viết dạng này trong những năm vừa qua ở nước ta thường mắc phải sai lầm là không chú ý đến đối tượng mà mình phản bác. Những người xuyên tạc Hồ Chí Minh, như tôi đã phân tích ở bên trên, thường có cái tâm xấu, thường là những kẻ phản động. Những người này hoàn toàn có quan điểm, lập trường khác chúng ta, hoàn toàn không đứng trên quan điểm của Đảng. Do vậy, không nên và không thể dùng quan điểm, lập trường Mác – Lênin để “đấu” với họ. Về vấn đề tương tự, ngay bản thân Hồ Chí Minh cũng đã có lần phê bình một số cán bộ cải cách ruộng đất của ta khi tuyên truyền, giải thích cho linh mục thường cứ lấy chủ nghĩa Mác – Lênin ra để giải thích. Hai chỗ đứng khác nhau, nhất thiết không thể viết theo kiểu “viết lấy được”.
Hai là, không nên lấy lời lẽ chửi rủa để đối lại lời lẽ chửi rủa của những người xuyên tạc.
Những luận điệu xuyên tạc Hồ Chí Minh của những người không có tâm lành thường là rất cực đoan, bôi đen, chửi rủa kiểu “hàng tôm hàng cá”. Tôi đã đọc một số bài viết kiểu này ở trong nước. Sự phê bình nào cũng cần cái chất văn hóa, có như thế sự phê bình, phê phán mới ở tầm trí tuệ, mới có tác dụng, và qua đó cũng có thể hy vọng làm cho đối tượng được phê bình, phê phán tâm phục khẩu phục.
Những bài phê phán, phản bác sắc bén bao giờ cũng đi kèm với lối lập luận, với hành văn trong sáng, hấp dẫn, đầy tính nhân văn, hướng thiện, hướng cho người đọc vào cái đẹp của tình và lý. Điều này khác một trời một vực với kiểu lý lẽ không sắc bén, nhưng lại được viết theo kiểu đao to búa lớn, chửi cho bõ tức, “hòn đá ném đi, hòn chì ném lại”. Hơn ở đâu hết, những bài luận chiến này càng phải được đặt trên cái nền của văn hóa. Có như thế, những lời lẽ của người viết mới có sức sống lâu bền. Cái bền và cái lan tỏa của văn hóa chính là ở đó.
Ba là, những bài viết cần kịp thời, có lý lẽ khoa học; chú trọng xây dựng đội ngũ cán bộ xung kích đấu tranh chống lại các luận điệu xuyên tạc Hồ Chí Minh.
Những luận điệu xuyên tạc Hồ Chí Minh thường rải rác cả thời gian và không gian, cho nên cần theo dõi chặt chẽ để có những bài viết phản bác kịp thời. Muốn vậy, phải có bộ phận chuyên trách theo dõi để phối hợp hoạt động nhịp nhàng, chú ý cung cấp tài liệu kịp thời cho người viết. Kịp thời, đúng lúc là một nhân tố bảo đảm sự thắng lợi trong cuộc đấu tranh tư tưởng nói chung, nhất là trong thời buổi công nghệ thông tin phát triển nhanh đến chóng mặt như hiện nay. Với công nghệ này, cần tận dụng các phương tiện một cách phong phú, hiệu quả. Chưa bao giờ mặt trận tư tưởng được mở rộng với nhiều phương tiện, hình thức như giai đoạn hiện nay. Đó là các phương tiện nghe nhìn, là truyền miệng, là báo viết, điện tử, báo hình, là phương tiện lưu truyền không chỉ là trên giấy, v.v. Người chiến sĩ trên mặt trận này hiện nay chưa bao giờ có được những lợi thế hành nghề như thế. Nhưng, lợi thế đó cũng nằm ở phía bên kia, mà có khi với điều kiện kinh phí, họ lại nhanh nhạy hơn chúng ta. Do vậy, phải có sự đầu tư thêm “vũ khí”, tức là phải chịu bỏ tiền ra để đầu tư “nâng cấp” các phương tiện. Phương tiện không phải là số 1, càng không phải là duy nhất, nhưng chúng có vai trò cực kỳ quan trọng trong cuộc đấu tranh trên mặt trận tư tưởng.
Đương nhiên, phương tiện vẫn chỉ là phương tiện; cái phần quan trọng nhất phải là con người sử dụng phương tiện đó. Do vậy, cái lôgíc của vấn đề còn lại là ở chỗ, con người đó phải được đào tạo, phải được luôn luôn được bồi dưỡng, được tu dưỡng. Điều này đòi hỏi chất lượng người chiến sĩ trên mặt trận tư tưởng. Mà chất lượng này được tạo ra từ kết quả tổng hợp của nhiều yếu tố. Cần có biện pháp xây dựng đội ngũ cán bộ xung kích đấu tranh phản bác lại những luận điệu xuyên tạc Hồ Chí Minh. Tốt nhất là Ban Tuyên giáo Trung ương đứng ra tổ chức đội ngũ này. Tôi không dùng cụm từ “Đội ngũ cán bộ chuyên trách” mà là “Đội ngũ cán bộ xung kích”. Điều đó có nghĩa là, những chuyên gia trên lĩnh vực này có thể kiêm nhiệm từ các cơ quan, nhưng nên có một bộ phận chuyên trách ở Ban Tuyên giáo Trung ương. Tất cả lực lượng này, tôi nhấn mạnh rằng, phải có tổ chức, không phải là cộng tác viên, mà họ tuy có thể là những người kiêm nhiệm, nhưng đối với họ, việc thường xuyên đấu tranh phản bác lại những luận điệu xuyên tạc Hồ Chí Minh là một trong những nhiệm vụ chính trị, chính thức trong biểu lịch công tác hằng năm. Đương nhiên, cần có chính sách đãi ngộ phù hợp cho đội ngũ này.
Tôi mới chỉ đề cập một mặt nhỏ của việc này mà thôi. Nhìn một cách toàn diện thì đó là công tác tổ chức của một mặt trận chiến đấu với nhiều nhiệm vụ, với cả một bộ máy quy củ, chặt chẽ của nó từ trên xuống dưới, từ sự lãnh đạo, chỉ đạo của Bộ Chính trị, Ban Bí thư Trung ương Đảng đến các đơn vị và cá nhân.
Tôi và một số người có chung một nhận xét rằng, có một số bài viết, bài nói phê phán lại các xuyên tạc của một số người về Hồ Chí Minh không có sức thuyết phục, ngay cả phía chúng ta. Nguyên nhân chủ yếu là do những bài viết đó ít có chất liệu khoa học, lý lẽ không xác đáng, và như vậy dẫn đến không thể thuyết phục được người đọc. Do vậy, vấn đề đặt ra là ở chỗ: người viết phải có trình độ chuyên sâu, với phương pháp tốt. Điều này liên quan đến việc xây dựng đội ngũ cán bộ như đã trình bày trên đây. Bài viết là sự kết tinh của trí tuệ, trách nhiệm, tình cảm tác giả. Một bài bút chiến dù có dùng bút pháp phù hợp đến đâu nhưng nội dung nhạt nhòa thì không thể có sức thuyết phục, làm cho người ta tâm phục, khẩu phục được.
Cái nền của việc này là ở công tác nghiên cứu. Cần tổ chức lại công tác nghiên cứu về Hồ Chí Minh học. Hiện nay, nước ta có Viện Hồ Chí Minh và các lãnh tụ của Đảng thuộc Học viện Chính trị-Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh. Ở các trường đại học và cao đẳng chỉ có bộ phận giảng dạy môn học Tư tưởng Hồ Chí Minh. Trước đây, chúng ta đã có hẳn một Viện Hồ Chí Minh làm nhiệm vụ nghiên cứu, nhưng tình hình hiện nay có khác. Cái khác ở chỗ:
- Viện Hồ Chí Minh hiện nay thuộc Học viện Chính trị-Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh có hai nhiệm vụ chủ yếu là nghiên cứu và đào tạo, nhưng hiện tại vẫn nặng về đào tạo là chủ yếu. Có thể nói rằng, lực lượng cán bộ của Viện chủ yếu hiện nay là đi dạy, ít có thời giờ để tập trung nghiên cứu sâu.
- Đội ngũ cán bộ nghiên cứu của Viện hiện nay vừa thiếu, vừa yếu, vừa phân tán nhiệm vụ (như đã viết ở trên là nặng về giảng dạy). Nhận định này có thể làm cho anh chị em cán bộ của Viện tự ái. Song, đó là sự thật. Mà nói sự thật dễ mất lòng. Không thể không nói.
- Hướng chủ yếu hiện nay của Viện vẫn là nghiên cứu và giảng dạy tư tưởng Hồ Chí Minh chứ không nghiên cứu một cách toàn diện với tư cách là chuyên ngành Hồ Chí Minh học (rộng hơn so với tư tưởng Hồ Chí Minh).
- Viện chưa có một chiến lược lâu dài, cơ bản, kể cả xây dựng lực lượng, mà bị hút vào công việc trước mắt.
- Viện chưa có nổi một diễn đàn riêng, ngay cả ở dưới dạng một bản tin khoa học, về Hồ Chí Minh. Về cơ bản, lâu dài, cần có một tạp chí về Hồ Chí Minh học, nhưng nghe ra có vẻ xa vời.
Có thể kể ra nhiều điểm nữa. Tôi kể ra như thế để đi đến một kiến nghị rằng, nên có tổ chức lại. Có thể thành lập một Viện Hồ Chí Minh chuyên làm công tác nghiên cứu, với chức năng, nhiệm vụ nặng hơn, trong đó có việc thường xuyên đấu tranh phản bác lại những luận điểm xuyên tạc cuộc đời, sự nghiệp, tư tưởng Hồ Chí Minh. Nếu có được một Viện như thế thì bộ phận chuyên trách như tôi đã đề cập ở bên trên dự định ở Ban Tuyên giáo Trung ương sẽ do Viện này đảm nhiệm. Xây dựng một đội ngũ cán bộ nghiên cứu Hồ Chí Minh thật hùng hậu trong cả nước. Chú trọng hơn nữa công tác đào tạo, bồi dưỡng, không chỉ “hớt váng” như bấy lâu nay bồi dưỡng để nhanh chóng đi dạy ở các trường đại học và cao đẳng, chất lượng rất thấp. Mạnh dạn mở hệ đại học chính quy 4 năm đào tạo cử nhân ngành Hồ Chí Minh học, trên cơ sở đó đào tạo chuyên sâu thạc sĩ, tiến sĩ chuyên ngành Hồ Chí Minh học.
Viện này đặt ở đâu? Vẫn là ở Học viện Chính trị-Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh hay ở chỗ nào khác? Điều này cần tính toán kỹ. Hiện nay, đặt ở Học viện Chính trị-Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, như tôi viết trên đây, là bị hút vào giảng dạy, chưa được đầu tư cán bộ và kinh phí nghiên cứu tương xứng. Viện vẫn bị bó hẹp về biên chế, về kinh phí. Thực trạng này khó có thể cải thiện được. Và, như thế, cái nền nghiên cứu Hồ Chí Minh sẽ tiếp tục bị hạn chế. Cái vòng luẩn quẩn vẫn bị diễn ra như cái lôgíc tất yếu: nghiên cứu yếu kém ® yếu kém trong việc phản bác lại những luận điệu xuyên tạc Hồ Chí Minh ® yếu kém trong nghiên cứu…
Mỗi năm, mỗi thời kỳ, mỗi giai đoạn, đất nước ta đều đứng trước những thời cơ và thách thức mới. Năm 2009 cũng vậy. Phát triển hay là chết. Đó là khẩu hiệu của cả dân tộc Việt Nam. Những phần tử xấu không muốn cho dân tộc ta phát triển trên con đường của chủ nghĩa xã hội. Muốn phát triển nhanh và bền vững, phải dựa trên nền tảng của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Bảo vệ chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, do đó, trở thành sự bảo vệ những nhân tố chủ đạo của sự phát triển.
Đặt vấn đề như vậy, đủ để thấy tầm quan trọng và tính cấp thiết của công tác này lớn như thế nào.
Tháng 2 năm 2009
________________________________________
* Chuyên đề được viết theo yêu cầu của TS Dương Minh Đức, Chủ nhiệm đề tài nghiên cứu khoa học các Ban Đảng KH-BĐ (2008)-04: “Một số giải pháp đấu tranh phản bác lại luận điệu sai trái, thù địch về cuộc đời và sự nghiệp của Bác, góp phần thực hiện thắng lợi cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh””.
[1] Theo “Phỏng vấn nhà văn Dương Thu Hương”, http://www.bbc.co.uk/vietnamese, 12-2-2009, 11:54 GMT.
[2] Theo Bá Ngọc, Trần Minh Siêu: Chuyện kể bên mộ bà Hoàng Thị Loan, Nxb Thanh niên, Hà Nội, 2007, tr. 74.
[3] Hồ Chí Minh: Toàn tập, T. 6, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, tr. 114.
[4] Xem Hồ Chí Minh: Toàn tập, T. 5, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, tr. 40.
[5] Hồ Chí Minh: Toàn tập, T. 5, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, tr. 171-172.
[6] Theo Vũ Đình Hoè: Pháp quyền nhân nghĩa Hồ Chí Minh, Nxb Văn hoá Thông tin, Trung tâm Văn hoá Đông Tây, Hà Nội, 2001, tr. 151.
[7] Như trên.
[8] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII, Nxb Sự thật, Hà Nội, 1991, tr. 127.
[9] Nh¬ư trên.
[10] Như¬ trên, tr. 128.
[11] Như trên, tr. 53.
[12] Như trên, tr. 80.
[13] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001, tr. 83.
[14] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006, tr. 6 – 7.
[15] Theo “Phỏng vấn nhà văn Dương Thu Hương”, http://www.bbc.co.uk/vietnamese, 12-2-2009, 11:54 GMT.
[16] Theo “Phỏng vấn nhà văn Dương Thu Hương”, http://www.bbc.co.uk/vietnamese, 12-2-2009, 11:54 GMT.
[17] Xem Nghiên cứu, giáo dục tư tưởng Hồ Chí Minh trong thời kỳ đổi mới, Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội, 2005 (TS Nguyễn Văn Sáu – Chủ biên; GS,TS Mạch Quang Thắng; PGS,TS Nguyễn Khánh Bật; PGS,TS Lê Văn Tích…).
[18] Ngoài bộ Hồ Chí Minh Toàn tập gồm 12 tập, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia còn xuất bản Hồ Chí Minh Tuyển tập gồm 3 tập dịp Kỷ niệm lần thứ 112 Ngày sinh của Hồ Chí Minh (5-2002). Hiện nay, ở Việt Nam đang xác minh, thẩm định các văn bản tài liệu nghi là những bài nói, bài viết của Hồ Chí Minh để bổ sung vào bộ sách Hồ Chí Minh Toàn tập.
Bài này được đăng lúc 18:03 ngày Chủ Nhật, 03 Tháng Một 2010 trong mục Diễn đàn "Hồ Chí Minh học", Đánh giá - Nghiên cứu.
http://thehehochiminh.net/2010/01/03/nguyen-nhan-c%e1%bb%a7a-cac-lu%e1%ba%adn-di%e1%bb%87u-xuyen-t%e1%ba%a1c-v%e1%bb%81-h%e1%bb%93-chi-minh-va-gi%e1%ba%a3i-phap-d%e1%ba%a5u-tranh-ch%e1%bb%91ng-l%e1%ba%a1i-cac-lu%e1%ba%adn-di%e1%bb%87u-xu/


thehehochiminh.wordpress.com/gt/mach_...



Tại sao Hồ Chí Minh bị hiểu lầm?
GS.TS MẠCH QUANG THẮNG
Ngày 6-6-1938, với tên tiếng Nga là Lin, khi đang làm nghiên cứu sinh tại Viện Những vấn đề dân tộc và thuộc địa tại Mátxcơva, Hồ Chí Minh gửi thư cho một đồng chí của mình ở Quốc tế Cộng sản (QTCS):
“Hôm nay là ngày kỷ niệm lần thứ bảy việc tôi bị bắt giữ ở Hồng Công. Đó cũng là ngày mở đầu năm thứ tám tình trạng không hoạt động của tôi. Nhân dịp này, tôi viết thư gửi đồng chí để xin đồng chí giúp đỡ tôi thay đổi tình cảnh đau buồn này.
Đồng chí hãy phân tôi đi đâu đó. Hoặc giữ tôi ở lại đây. Hãy giao cho tôi làm một việc gì mà theo đồng chí là có ích. Điều tôi muốn đề nghị với đồng chí là đừng để tôi sống quá lâu trong tình trạng không hoạt động và giống như là sống ở bên cạnh, ở bên ngoài của Đảng”[1].
Con người ta khó mà tránh được sự hiểu lầm từ người thân, bạn bè, đồng chí, từ tổ chức. Hồ Chí Minh đã bị QTCS và một số học trò của mình hiểu lầm. Năm 1933, trong cuốn“Sơ thảo lịch sử phong trào cộng sản ở Đông Dương”, tác giả Hồng Thế Công (tức Hà Huy Tập) đã cho rằng Hồ Chí Minh “đã phạm một loạt sai lầm cơ hội chủ nghĩa…mà chúng ta không thể bỏ qua”[2]. Hà Huy Tập đem những quan điểm của Hồ Chí Minh trong các văn kiện thành lập ĐCS Việt Nam đầu năm 1930 ra để đối chiếu với những quan điểm của Đại hội VI QTCS. So sánh như vậy, thì hèn gì mà không hiểu lầm.
Hà Huy Tập cho rằng: “Hội nghị đã bỏ quên cách mạng phản đế…, đã nhận định một cách cơ hội chủ nghĩa cách mạng Việt Nam tách rời cách mạng thế giới nói chung và tách rời cách mạng Đông Dương nói riêng. Sở dĩ sai lầm như vậy là vì đồng chí Nguyễn Ái Quốc và các đại biểu Hội nghị hợp nhất còn mang nặng những tàn tích của chủ nghĩa quốc gia và chủ nghĩa dân tộc sô vanh.” Đến nỗi mà ngày 31-3-1935, trong Thư của Ban Chỉ huy ở ngoài gửi QTCS, có “đề nghị đồng chí Lin viết một cuốn sách để tự phê bình những khuyết điểm đã qua”[3].
Tại sao QTCS và một số người trong Trung ương ĐCS Đông Dương hiểu lầm Hồ Chí Minh ?
Tôi cho rằng, có mấy điểm sau đây:
Một là: Quan điểm không đúng của Đại hội VI QTCS năm 1928 và ảnh hưởng dai dẳng của nó tới cách mạng giải phóng dân tộc ở thuộc địa.
QTCS đã thúc đẩy phong trào cộng sản và công nhân quốc tế trên thế giới, thúc đẩy phong trào giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa. Nhưng QTCS cũng không tránh khỏi những sai lầm sau khi V.I. Lênin mất. Đến Đại hội VI QTCS năm 1928, quan điểm về vấn đề dân tộc và thuộc địa đã lệch sang một phía tả. Đại hội VI QTCS nhấn mạnh đấu tranh giai cấp, chủ quan về đánh giá lực lượng cách mạng ở các nước thuộc địa, đánh giá sai tương quan lực lượng các giai cấp. Đại hội VI QTCS còn xác định nhiệm vụ chống cả các thế lực tôn giáo, cho vào một rọ/gắn liền với các nhiệm vụ chống chủ nghĩa đế quốc, phong kiến và tư sản bản xứ. Thật quá tả, hết sức quá tả. Chống đế quốc, chống phong kiến, chống tư sản, chống tôn giáo, chống lực lượng xã hội dân chủ. Chống tất. Chỉ độc có có công nông là cách mạng mà thôi. Quá biệt phái. Điều này có căn nguyên của nó do quá trình bônsêvích hoá các ĐCS trên thế giới kéo dài để gột rửa những ảnh hưởng của chủ nghĩa cơ hội, cải lương từ Quốc tế II. Đại hội VI lo lắng cho tình hình các ĐCS ở các nước thuộc địa phương Đông bị chịu ảnh hưởng nhiều từ các tàn tích của chế độ phong kiến, lo rằng các đảng đó có thể dễ thoả hiệp với giai cấp tư sản dân tộc.
Do tình hình trên, nên ngày 1-9-1928, trong Báo cáo được đọc mang tên Đề cương về phong trào cách mạng ở các nước thuộc địa và nửa thuộc địa, QTCS đã đưa ra quan điểm đánh giá về thái độ chính trị của các giai cấp không đúng. Chẳng hạn, đối với giai cấp tư sản dân tộc, QTCS cho rằng: 1. Giai cấp tư sản dân tộc một mặt có liên hệ với bọn đại địa chủ, mặt khác lại liên hệ với tư bản nước ngoài nên giai cấp tư sản dân tộc thuộc về phe phản cách mạng; 2. Giai cấp địa chủ, dù bất kỳ loại nào, nghĩa là từ đại địa chủ cho đến tiểu địa chủ, đều phải đánh đổ vì điều này phục tùng quan điểm xoá bỏ các quan hệ tiền tư bản; 3. Lực lượng trí thức và tiểu tư sản không phải là lực lượng liên minh với giai cấp vô sản vì họ là đại biểu kiên quyết nhất không những cho lợi ích riêng của giai cấp tiểu tư sản mà cả cho lợi ích của giai cấp tư sản, chỉ có một số ít thoát ly khỏi giai cấp họ, nhận thức được nhiệm vụ đấu tranh giai cấp của giai cấp vô sản và trở thành những người bảo vệ tích cực lợi ích giai cấp vô sản.
Phải nói rằng, từ quan điểm gốc này của Đại hội VI QTCS, sau đó là hàng loạt chỉ đạo cụ thể, cách mạng ở Đông Dương đã chịu hậu quả không tốt. Văn kiện đầu tiên, ngay sau đó mà QTCS chỉ đạo cho cách mạng Việt Nam là Nghị quyết về Đông Dương ra tháng 12-1929. Chắc chắn rằng, những hiểu biết của QTCS về Đông Dương lúc đó không có được cơ sở thực tế chắc chắn. QTCS đã hướng cho việc thành lập ở Đông Dương một ĐCS duy nhất trên cơ sở tập hợp những phần tử tiên tiến nhất, cách mạng và tích cực nhất trong tất cả các nhóm cộng sản với một cương lĩnh hành động minh bạch phù hợp với đường lối chung của QTCS. Nghị quyết này là sự liền mạch và là sự triển khai một cách chặt chẽ, cụ thể nhất những quan điểm của Đại hội VI trước đó 1 năm. Như vậy, với quan điểm của Đại hội VI năm 1928 và quan điểm của Nghị quyết về Đông Dương cuối năm 1929, QTCS, trừ công-nông ra, đã gạt sạch tất cả các giai cấp, tầng lớp còn lại của một xã hội thuộc địa, phong kiến ra ngoài vòng các lực lượng cần tập hợp. Đã thế, trong Nghị quyết về Đông Dương, QTCS đưa ra một lời cảnh báo, chặn trước rằng: QTCS “Chỉ có thể thừa nhận là tổ chức của ĐCS Đông Dương…chỉ những tổ chức và nhóm hoàn toàn chấp nhận những quyết định của Ban Chấp hành QTCS”[4].
Hai là: hành động “lội ngược dòng” của Hồ Chí Minh
Ngay trong khoảng một năm rưỡi (từ giữa năm 1923 đến cuối năm 1924) khi hoạt động trong Ban Phương Đông của QTCS, Hồ Chí Minh có dịp học tập một thời gian ngắn ở Trường Đại học cộng sản Phương Đông và tham gia Đại hội V và một loạt hội nghị của các tổ chức QTCS. Chính từ trong môi trường hoạt động này, Hồ Chí Minh có cái nhìn toàn diện hơn, sâu hơn về chủ nghĩa Mác và chủ nghĩa Lênin. Và, ngay từ những năm này, Người đã có một thiên hướng tiếp thu sáng tạo chủ nghĩa Mác.
Với phong cách và bản lĩnh đó, cộng thêm thời gian Hồ Chí Minh hoạt động ở Trung Quốc, chuẩn bị cả về tư tưởng, tổ chức cho sự ra đời của chính đảng cách mạng Mác – Lênin ở Việt Nam bằng cách tại Quảng Châu lập ra tổ chức Việt Nam Cách mệnh Thanh niên, đưa thanh niên yêu nước Việt Nam sang đào tạo, huấn luyện; cộng thêm thời gian ông hoạt động ở Xiêm, v.v. đã hình thành ở Hồ Chí Minh những đường hướng, quan điểm nhất quán về cách mạng Việt Nam mà khác với tinh thần của Đại hội VI QTCS năm 1928.
Giai cấp tư sản dân tộc ở các nước thuộc địa, dưới quan điểm của Đại hội VI QTCS thì đó là đối tượng cần phải đánh đổ, thì trong cương lĩnh đầu năm 1930, Hồ Chí Minh lại “cãi” rằng: “Tư bản bản xứ đã thuộc tư bản Pháp, vì tư bản Pháp hết sức ngăn trở sức sinh sản làm cho công nghệ bản xứ không thể mở mang được. Còn về nông nghệ một ngày một tập trung đã phát sinh ra lắm khủng hoảng, nông dân thất nghiệp nhiều. Vậy tư bản bản xứ không có thế lực gì, ta không nên nói cho họ đi về phe đế quốc được”[5]; “Đảng tập hợp và lôi kéo phú nông, tư sản và tư sản bậc trung”[6].
Toàn bộ giai cấp địa chủ ở các nước thuộc địa, theo Đại hội VI QTCS là giai cấp phải đánh đổ, thì trong cương lĩnh, Hồ Chí Minh lại khẳng định: “Chỉ bọn đại địa chủ mới có thế lực và đứng hẳn về phe đế quốc chủ nghĩa”[7]; “Còn đối với bọn phú nông, trung, tiểu địa chủ và tư bản An Nam mà chưa rõ mặt phản cách mạng thì phải lợi dụng, ít lâu mới làm cho họ trung lập”[8].
Đối với tiểu tư sản, trí thức ở các nước thuộc địa, trong khi Đại hội VI QTCS ngăn rằng, không được liên minh với họ, chỉ một số ít trong họ thoát khỏi sự ảnh hưởng từ giai cấp của họ mà đứng về phía cách mạng mà thôi, thì trong cương lĩnh, Hồ Chí Minh lại khẳng định: “Đảng phải hết sức liên lạc với tiểu tư sản, trí thức…để kéo họ đi vào phe vô sản giai cấp”[9].
Đã thế, cách thành lập Đảng của Hồ Chí Minh không theo đúng tinh thần chỉ đạo của QTCS, khi QTCS chủ trương thành lập ĐCS Đông Dương thì Hồ Chí Minh lại thành lập ĐCS Việt Nam. Hồ Chí Minh giữ quan điểm này một cách kiên trì trên tinh thần thực hiện quyền dân tộc tự quyết mà V.I. Lênin đã nêu ra.
Hiểu lầm dai dẳng đến nỗi tại Đại hội I của ĐCS Đông Dương (3-1935), Hồ Chí Minh chỉ được bầu làm Uỷ viên dự khuyết Trung ương Đảng, tuy rằng, đã từ lâu, trên thực tế Hồ Chí Minh đã là lãnh tụ của Đảng, là cán bộ của QTCS. Cũng có thể với tư cách như vậy cho nên Đại hội I của ĐCS Đông Dương cử Hồ Chí Minh làm Đại diện của Đảng trong QTCS và làm đại biểu chính thức dự Đại hội VII QTCS (lúc này Hồ Chí Minh đang ở Liên Xô).
Nghi ngờ và hiểu lầm dai dẳng đến nỗi Đại hội VII của QTCS diễn ra vào tháng 7-1935 ở Mátxcơva, khi Hồ Chí Minh đang ở đó mà QTCS không được cử Người làm đại biểu chính thức dự Đại hội, mà chỉ được mời dự thính mà thôi. Xét cho cùng, Đại hội VII, với Báo cáo của G. Đimitơrốp “Sự tiến công của chủ nghĩa phátxít và nhiệm vụ của Quốc tế Cộng sản trong cuộc đấu tranh vì sự thống nhất giai cấp công nhân, chống chủ nghĩa phátxít” cùng các báo cáo khác của P. Tôliátti, Đ. Manuinxki…đã thực chất phê phán đường lối, quan điểm tả khuynh của đại hội VI QTCS năm 1928, phần nào “trở về” với những quan điểm rất đúng đắn của Hồ Chí Minh trong việc tập hợp lực lượng cách mạng. QTCS ở Đại hội VI là một bước lùi. Còn QTCS ở Đại hội VII là một bước tiến khổng lồ về nhận thức lý luận và thực tiễn. Với lôgíc của đường lối này, về bản chất, là sự gặp gỡ với những quan điểm của Hồ Chí Minh, tuy rằng quan điểm của Hồ Chí Minh là về cách mạng giải phóng dân tộc ở thuộc địa, còn quan điểm của G. Đimitơrốp là ở trên mặt trận chống chủ nghĩa phátxít, đòi tự do, dân chủ, hoà bình. Những hiểu lầm về Hồ Chí Minh, theo đó, lẽ ra sẽ được giải tỏa. Nhưng không. Trong con mắt QTCS và đồng chí của mình, Hồ Chí Minh vẫn là một nhà dân tộc chủ nghĩa, quốc gia cải lương.
Bởi trước đó, lại thêm một sự kiện “bất lợi” nữa cho Hồ Chí Minh. Người bị bắt ở Hồng Công năm 1931 và mãi hơn 1 năm sau mới được thả ra. May mắn thay và cũng thật là oái oăm thay, ông được thả ra chủ yếu và đặc biệt là nhờ sự giúp đỡ vô cùng có hiệu quả của vợ chồng luật sư Lôdơby (không cộng sản, người Anh) đồng thời có sự giúp đỡ của Cứu tế đỏ và sự giúp đỡ phần nào của V. Cutuyriê, Uỷ viên Trung ương ĐCS Pháp. Vốn đang bị hiểu lầm mà lại trắng án, ra tù của đế quốc, lại do những người không cộng sản cứu thoát, thì việc trở về đại bản doanh Mátxcơva, Hồ Chí Minh khó mà lấy lại ngay niềm tin của QTCS. Chính vì vậy, trong một bức thư của bà V. Vaixiliêva và Miphơ, là cán bộ Phòng Đông Dương thuộc Ban Phương Đông QTCS, gửi cho Ban ngày 29-6-1935, có viết rằng: “Về việc liên quan đến Nguyễn Ái Quốc, chúng tôi cho rằng, ít nhất trong hai năm tới đây, đồng chí ấy cần phải học tập một cách nghiêm túc và không thể làm một việc gì khác. Sau khi đã học ở chỗ chúng tôi, sẽ có kế hoạch đặc biệt để sử dụng đồng chí ấy. Vì thế các đồng chí cần xác định rõ mối quan hệ với Nguyễn Ái Quốc”[10]. Họ nghi ngờ rằng: “Qua lời kể của Nguyễn Ái Quốc thì khó xác định được tại sao đồng chí ấy lại dễ dàng ra khỏi nhà tù và thoát khỏi tay cảnh sát Pháp…Đồng chí ấy nói rằng, chuyến đi này được tiến hành nhờ sự giúp đỡ của V. Cutuyriê trong thời gian ở Trung Quốc. Tôi nghĩ rằng, tất cả những việc này cần được kiểm tra một cách thận trọng”[11].
Quốc tế Cộng sản cử Hồ Chí Minh học ở Trường Quốc tế Lênin. Sau khi tốt nghiệp, Hồ Chí Minh muốn trở về Việt Nam, nhưng vì nhiều lý do, Người chưa được chấp thuận. Hồ Chí Minh được cử vào làm cán bộ nghiên cứu của Viện Những vấn đề dân tộc và thuộc địa của QTCS. Từ biên chế của Viện này, đầu năm 1937, Hồ Chí Minh được cử làm nghiên cứu sinh của Viện. Cũng may cho Hồ Chí Minh, sau bức thư ngày 6-6-1938 gửi cho một đồng chí ở QTCS, và chắc chắn sau một số cuộc gặp với cấp trên, Người được chấp thuận cho xoá tên khỏi danh sách nghiên cứu sinh và trở lại Trung Quốc năm 1939 lúc tình hình trên thế giới đang có có sự biến chuyển dữ dội do Chiến tranh thế giới sắp nổ ra và tình hình cách mạng Việt Nam đang có sự chuyển hướng chiến lược quan trọng theo hướng đi theo tư tưởng của Hồ Chí Minh về những vấn đề của cách mạng Việt Nam. Hội nghị Trung ương Đảng trong 3 ngày 6, 7, 8 tháng 11-1939 tại Bà Điểm (Gia Định) do Tổng Bí thư Nguyễn Văn Cừ chủ trì, đã trở lại với những quan điểm đúng đắn của Hồ Chí Minh về cách mạng Việt Nam. Hội nghị đã xác định: “Bước đường sinh tồn của các dân tộc Đông Dương không còn có con đường nào khác hơn là con đường đánh đổ đế quốc Pháp, chống tất cả ách ngoại xâm, vô luận da trắng hay da vàng để giành lấy giải phóng dân tộc”. Tất cả giương cao ngọn cờ giải phóng dân tộc, đó là chiến lược được thay thế cho cách mạng tư sản dân quyền và thổ địa cách mạng; tất cả mọi nhiệm vụ, kể cả cách mạng ruộng đất đều phải phục tùng nhiệm vụ dân tộc; thành lập chính phủ cộng hoà dân chủ, không chỉ riêng cho công nông. Muốn vậy, phải thành lập Mặt trận thống nhất dân tộc phản đế rộng rãi bao gồm công nông, tiểu tư sản, các tầng lớp tư sản bản xứ, trung tiểu địa chủ, các dân tộc ít người, các tôn giáo, v.v. Rồi sau đó, đến Hội nghị tháng 5-1941 tại Pác Bó (Cao Bằng) do Hồ Chí Minh chủ trì, mà trước đó quan điểm của Trung ương Đảng cùng Quyền Tổng Bí thư Trường-Chinh đã thống nhất với tư tưởng của Hồ Chí Minh. Đó là sự gặp gỡ tuyệt đẹp, chấm dứt hoàn toàn sự hiểu lầm của Trung ương ĐCS Đông Dương đối với Hồ Chí Minh.
Sự hiểu lầm về Hồ Chí Minh cũng có thể còn do sự không mặn mà của một số người trong ĐCS Pháp đối với Hồ Chí Minh khi Người đang hoạt động ở Liên Xô. Lúc này, Hồ Chí Minh đã phê bình một cách quyết liệt, gay gắt tính không triệt để và không kiên quyết của ĐCS Pháp đối với vấn đề thuộc địa. Khi trở thành đảng viên của ĐCS Pháp và khi còn ở Pháp đến mùa hè năm 1923, Hồ Chí Minh đã kiến nghị, góp ý cho Trung ương ĐCS Pháp ủng hộ phong trào giải phóng dân tộc ở các thuộc địa do Pháp chiếm đóng, đặc biệt là đối với Đông Dương. Nhưng, sang đến Liên Xô, vẫn với tư cách là một đảng viên của ĐCS Pháp, hoạt động trong bộ máy của QTCS, Hồ Chí Minh tiếp tục luồng sinh khí ấy, nghĩa là có những góp ý, thậm chí phê bình gay gắt ĐCS Pháp trong vấn đề thuộc địa. Hồ Chí Minh đã phê bình với những từ ngữ, lời lẽ mà nghe ra rất đanh: những nghị quyết của ĐCS Pháp về vấn đề dân tộc và thuộc địa “chỉ được dùng để tô điểm mặt giấy”[12]. Theo sáng kiến của Hồ Chí Minh, từ năm 1921, báo L’ Humanité (Nhân đạo) của ĐCS Pháp đã mở một chuyên mục Diễn đàn của các thuộc địa. Nhưng, chẳng bao lâu sau, chuyên mục này đã bị bỏ. Hồ Chí Minh nói rõ quan điểm của mình: “Thật là không thích đáng nếu cứ lắp đi lắp lại mãi một điều mà không làm gì cả. Và những người bị áp bức khốn khổ thấy chúng ta chỉ luôn luôn hứa hẹn nhưng cũng luôn luôn không hành động gì thì bắt đầu tự hỏi rằng không biết thực ra chúng ta là những người đứng đắn hay là những kẻ lừa phỉnh”[13]. Tháng 7-1923, từ Mátxcơva, Hồ Chí Minh viết thư cho Trung ương ĐCS Pháp đề nghị mở lại chuyên mục viết về thuộc địa trong báo L’Humanité và trong tất cả các báo chí của ĐCS Pháp, đề cập vấn đề thuộc địa “trong hết thảy các đại hội, mít tinh hoặc hội nghị của Đảng”[14], “cử các nghị sĩ đi thăm các thuộc địa”[15], v.v. Những đề nghị trên đây của Hồ Chí Minh sau khi ông rời khỏi địa bàn Pháp không được ĐCS Pháp chấp nhận. Rõ ràng là, với khẩu khí này thì có thể những người được góp ý khó mà tiếp thu, và khó mà có thiện cảm.
Ngay như tại Đại hội V của QTCS năm 1924 mà Hồ Chí Minh tham dự và có lời phát biểu, cũng thể hiện được khí khái thẳng như ruột ngựa của mình lúc đó. Trong Phiên họp ngày 23-6-1924, Hồ Chí Minh nói: “Tôi sẽ tận dụng mọi cơ hội có được, sẽ gợi ra những vấn đề và nếu cần tôi sẽ thức tỉnh các đồng chí về vấn đề thuộc địa…Các thuộc địa trở thành nền tảng của các lực lượng phản cách mạng. Thế mà các đồng chí khi nói về cách mạng, các đồng chí lại khinh thường thuộc địa…Tại sao các đồng chí lại xem thường thuộc địa trong lúc chủ nghĩa tư bản lại dựa vào nó để tự bảo vệ và chống lại các đồng chí?…Bàn về khả năng và các biện pháp thực hiện cách mạng…các đồng chí Anh và Pháp cũng như các đồng chí ở các đảng khác hoàn toàn bỏ qua luận điểm cực kỳ quan trọng có tính chiến lược này. Chính vì thế, tôi hết sức kêu gọi các đồng chí: Hãy chú ý”[16]. Tại một diễn đàn tại Phiên họp lần thứ 22 Đại hội đó, ngày 1-7-1924, với tư cách là một đảng viên của ĐCS Pháp, và nhân danh một người ở dân tộc thuộc địa, Hồ Chí Minh phát biểu để “bổ sung những ý kiến phê bình của đồng chí Manuinxki về chính sách của chúng ta trong vấn đề thuộc địa”. Hồ Chí Minh phê bình cả ĐCS Pháp và ĐCS Anh và ĐCS một số nước chưa quan tâm đến cách mạng ở các thuộc địa: “Sẽ không phải là quá đáng nếu nói rằng chừng nào Đảng Pháp và Đảng Anh chúng ta chưa thi hành một chính sách thật tích cực trong vấn đề thuộc địa, thậm chí chưa đề cập đến quần chúng các thuộc địa, thì toàn bộ chương trình rộng lớn của hai đảng đó vẫn không có hiệu quả gì. Chương trình ấy sẽ không có hiệu quả gì vì nó trái với chủ nghĩa Lênin”[17]. Hồ Chí Minh phát biểu tiếp: “Còn các ĐCS của chúng ta như ĐCS Anh, Hà Lan, Bỉ và các ĐCS các nước khác mà giai cấp tư sản ở đấy chiếm giữ thuộc địa, thì đã làm những gì? Các đảng này, từ khi chấp nhận bản Luận cương của Lênin, đã làm được những gì để giáo dục cho giai cấp công nhân nước mình tinh thần quốc tế chủ nghĩa chân chính, tinh thần gần gũi với quần chúng lao động các nước thuộc địa? Tất cả những việc mà các đảng của chúng ta đã làm về mặt này, thật hầu như chưa có gì cả. Còn về tôi, là một người sinh trưởng ở một nước hiện nay là thuộc địa của Pháp và là một đảng viên ĐCS Pháp, tôi lấy làm tiếc phải nói rằng ĐCS Pháp chúng tôi làm rất ít cho các nước thuộc địa”[18]. Hồ Chí Minh phát biểu một cách gay gắt, với khẩu khí thật mạnh và đưa ra những đề nghị rất cụ thể: “Vậy phải hành động thực tiễn như thế nào? Đề ra những luận cương dài dằng dặc và thông qua những nghị quyết rất kêu để sau Đại hội đưa vào viện bảo tàng như từ trước vẫn làm thì chưa đủ. Chúng ta cần có biện pháp cụ thể. Tôi đề nghị mấy điểm dưới đây:
1. Mở trên báo L’Humanité một mục để đăng đều đặn hằng tuần ít nhất hai cột các bài về vấn đề thuộc địa.
2. Tăng cường tuyên truyền và tuyển lựa đảng viên của Đảng trong những người bản xứ ở những nước thuộc địa đã có phân bộ cộng sản.
3. Gửi những người bản xứ vào Trường đại học cộng sản của những người lao động phương Đông ở Matxcơva.
4. Thoả thuận với Tổng Liên đoàn lao động thống nhất để tổ chức những người lao động của các thuộc địa làm việc ở Pháp.
5. Đặt nhiệm vụ cho các đảng viên của Đảng phải quan tâm hơn nữa đến vấn đề thuộc địa”[19].
Trong một bức thư đề ngày 11-4-1924 gửi Ban Chấp hành QTCS, Hồ Chí Minh nêu nhận xét của mình: “Những thuộc địa của Pháp nói chung và xứ Đông Dương nói riêng, rất ít được biết tới trong giới vô sản…QTCS và ĐCS Pháp đều hiểu biết rất ít về những gì xảy ra tại thuộc địa đó”[20].
Đầu những năm 20 của thế kỷ XX, Hồ Chí Minh nhấn mạnh trách nhiệm của giai cấp vô sản ở “chính quốc”, đặc biệt trong đó là giai cấp công nhân Pháp, phải kết hợp chặt chẽ với cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản ở thuộc địa, sự kết hợp đó tạo thành một mặt trận thống nhất của giai cấp vô sản toàn thế giới; công nhân Pháp phải kết tình anh em với binh lính bản xứ, “phải làm cho binh lính bản xứ hiểu rằng cả công nhân ở chính quốc lẫn binh lính ở thuộc địa, đều cùng bị chung một bọn chủ áp bức và bóc lột, do đó họ đều là anh em cùng giai cấp và khi tới lúc phải chiến đấu thì cả hai bên đều phải cùng đánh bọn chủ chung của mình, chứ anh em không nên đánh lẫn nhau”[21]. Như vậy, Hồ Chí Minh đi tới tận cùng của tư duy về chủ nghĩa thực dân và những biện pháp cách mạng trong thực tế. Hồ Chí Minh cho rằng, giai cấp vô sản chính quốc và đảng tiên phong của nó “không phải chỉ tỏ tình đoàn kết với những anh em cùng giai cấp ở đấy bằng lời nói, mà còn phải giác ngộ họ, giáo dục họ về ý thức tổ chức và về phương pháp tổ chức”[22]. Trên cơ sở đó, năm 1925, Người đề nghị QTCS: a) Làm cho đội tiên phong của giai cấp vô sản ở các thuộc địa tiếp xúc mật thiết với giai cấp vô sản phương Tây để dọn đường cho một sự hợp tác thực sự sau này. Chỉ có sự hợp tác đó mới có thể bảo đảm cho giai cấp công nhân quốc tế giành được thắng lợi cuối cùng; b) Làm cho các dân tộc thuộc địa – từ trước đến nay rời rạc với nhau – hiểu biết nhau và đoàn kết với nhau, do đó đặt cơ sở cho một khối liên hợp tương lai giữa các nước phương Đông, khối liên hiệp đó là một trong những cái cánh của cách mạng vô sản; c) Giai cấp vô sản các nước tư bản có thuộc địa cần nêu một tấm gương về những điều họ có thể và phải làm cho những anh em của họ đang bị áp bức[23].
Cái đúng không phải bao giờ dễ chấp nhận. Hồ Chí Minh đã trải qua những năm tháng không mấy êm đẹp, không mấy suôn sẻ trong lòng đại gia đình QTCS và trong quan hệ với Trung ương ĐCS Đông Dương những năm đầu khi Đảng mới thành lập. Hồ Chí Minh chấp nhận, đương đầu, lúc nhu, giữ mình để hoạt động và chờ có dịp, khởi phát và thực thi có hiệu quả những quan điểm của mình. Thời cuộc, thời thế sản sinh ra bản lĩnh chính trị Hồ Chí Minh. Hồ Chí Minh vững tâm và tỏ rõ bản lĩnh ấy nhất là trong những lúc khó khăn nhất của cuộc đời mình và trong những lúc vận mệnh của dân tộc rất hiểm nghèo như “trứng treo đầu đẳng”. Bản lĩnh đó của Hồ Chí Minh thể hiện ở không ít thời kỳ. Và cũng lạ thay, chính trải qua những sóng gió của quá trình bị hiểu lầm đó, Hồ Chí Minh đã thay đổi được khẩu khí và tính cách có lúc “cứng” của mình để không những vẫn giữ được quan điểm, nguyên tắc, nhưng đã “mềm” hơn rất nhiều trong các mối quan hệ ứng xử. Có lẽ sau những năm tháng ở vào “tình cảnh đau buồn”, không được QTCS giao nhiệm vụ gì, cảm thấy đứng ở bên lề, bên ngoài của Đảng, Hồ Chí Minh đã tỉnh ngộ ra cái điều nói chung ở QTCS ở phương Đông, đặc biệt là ở Việt Nam, không phải cứ cứng mà được, không phải cứ nói thẳng, nói to là xong, không phải cứ thẳng thắn là mọi việc đều chạy.
Đúng là không có gì bằng thầy dạy của cuộc sống. Những bài học từ thực tế sôi động trong lòng phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, phong trào giải phóng dân tộc đã được Hồ Chí Minh tự rút ra và từ đó tự điều chỉnh hành vi, thái độ ứng xử. Những năm không vui 1934-1938 đã rèn cho Hồ Chí Minh nhiều điều, rèn dũa thêm cho ông tính kiên trì, mềm mỏng hơn trong các mối quan hệ nội bộ, trầm lắng và khôn khéo hơn. Qua từng thời kỳ, từng giai đoạn sóng gió của thời cuộc và của cuộc đời mình, Hồ Chí Minh đã học, đã thấm và đã chuốt được thêm chữ “Nhẫn”. Điều này không dễ và không phải ai cũng làm được.
________________________________________
[1] Hồ Chí Minh: Toàn tập, T. 3, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, tr. 90.
[2] Xem: Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, T. 4 (1932-1934), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1999, tr. 399 – 425. Những đoạn trích trong ngoặc kép trên đây là có xuất xứ từ tài liệu này.
[3] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng Toàn tập, T. 5, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr. 203 – 204.
[4] Như trên, tr. 406.
[5] Hồ Chí Minh: Toàn tập, T.3, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội,1995, tr. 1.
[6] Như trên, tr. 4.
[7] Như trên.
[8] Như trên, tr. 3.
[9] Như trên.
[10] Theo Hồ sơ 495-154-585 “Vấn đề Nguyễn Ái Quốc” (Quan hệ của Ban Phương Đông Quốc tế Cộng sản với Đảng Cộng sản Đông Dương, từ tháng 3 đến tháng 5 năm 1935).
[11] Hồ Chí Minh-Biên niên tiểu sử, T. 2, Nxb Thông tin lý luận, Hà Nội, 2006, xuất bản tần thứ hai, tr. 59.
[12] Hồ Chí Minh: Toàn tập, T.1, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội,1995, tr. 194.
[13] Như trên, tr. 195.
[14] Như trên, tr. 197.
[15] Như trên.
[16] Như trên, tr. 273-275.
[17] Như trên, tr. 277.
[18] Hồ Chí Minh: Toàn tập, T. 1, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, tr. 278.
[19] Hồ Chí Minh: Toàn tập, T. 1, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, tr. 281.
[20] Hồ Chí Minh: Biên niên tiểu sử, T. 1, Nxb Thông tin lý luận, Hà Nội, 1992, tr. 214-215.
[21] Như trên, tr. 202.
[22] Hồ Chí Minh: Toàn tập, T. 2, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, tr. 114.
[23] Xem Hồ Chí Minh: Toàn tập, T. 1, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, tr. 302.
http://thehehochiminh.net/2010/01/03/t%e1%ba%a1i-sao-h%e1%bb%93-chi-minh-b%e1%bb%8b-hi%e1%bb%83u-l%e1%ba%a7m/






Nhà văn Sơn Tùng: ”Tôi chỉ mới mon men đến bên cạnh Bác”
VIỆT HÀ
Tôi đã tâm nguyện dành cả cuộc đời mình để tìm hiểu và viết về Người. Nhưng cho đến bây giờ, khi chân đã run, tóc đã trắng đầu mà tôi thấy mình mới chỉ mon men đến cạnh Bác. Tôi viết chủ yếu về Bác nhưng cũng là viết về thời đại. Bởi vì Bác là sự hội tụ của thời đại và là sự kết tinh của truyền thống, tinh hoa dân tộc.”. Đó là tâm sự của nhà văn Sơn Tùng, nhà văn được biết đến là một cây bút suốt đời viết về Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Nhà văn Sơn Tùng nuôi dưỡng ý định viết về Bác Hồ từ năm 1948. Khi ấy ông mới 20 tuổi.Ông đã vào Nam ra Bắc, ra nước ngoài, đến những nơi Bác từng đến, từng sống và làm việc. Ông đã gặp gỡ những người thân của Bác, những người bạn, người quen, người cùng thời với Bác để có được các thông tin, cứ liệu về Bác. Đến nay, nhà văn Sơn Tùng đã có 9 cuốn sách viết riêng về Bác và hàng chục cuốn khác viết về các danh nhân hay những vấn đề có Bác nổi lên như một hình tượng. Ông nói: “Viết về Bác nếu chỉ đơn thuần là những hiểu biết thông thường thì không thể viết được mà phải viết bằng tâm linh”. Cái chữ “tâm linh” này, để định nghĩa nó một cách rõ ràng và thấu đáo cũng không giản đơn. Nhưng ở đây, nhà văn Sơn Tùng muốn nói đến tình cảm và sự ngưỡng vọng của bản thân đối với nhân cách, trí tuệ và con người của Chủ tịch Hồ Chí Minh kính yêu.
Nhà văn Tùng Sơn quê ở Diễn Châu – Nghệ An và là người có họ xa với gia đình Bác Hồ. Ông nói, sinh thời bác cả Nguyễn Sinh Khiêm và o Nguyễn Thị Thanh coi ông như người trong nhà. Ông được nghe hai người kể cho nghe rất nhiều kỷ niệm về thời thơ ấu của Bác.Trong những năm từ 1956 đến 1964, nhiều lần nhà văn (lúc đó là nhà báo Sơn Tùng) có dịp được cùng Bác đi công tác, xuống cơ sở. Ông nói: “Tôi thật may mắn! Với tôi đó là những năm tháng không thể nào quên. Nhờ đó, tôi có nhiều cơ hội và những hiểu biết giúp cho việc cầm bút của tôi sau này”.
Sau tác phẩm “Búp sen xanh” (1980), cuốn “Bông sen vàng” (1984) là sự kết nối hoàn chỉnh về thời thơ ấu của Bác. Cả hai cuốn sách là sự tái hiện những ngày ấu thơ của Bác ở quê nhà và 10 năm Bác đi học ở Huế với nhiều câu chuyện chân thực, cảm động. Qua hai tác phẩm này, nhà văn Sơn Tùng muốn nói với độc giả rằng: Chính nền nếp gia phong, truyền thống yêu nước, nhân nghĩa của quê hương, của dân tộc đã làm nên con người và nhân cách vĩ đại Hồ Chí Minh. Truyền thống ấy đã làm nên ý chí và nghị lực để Người vượt qua bao nhiêu khó khăn trong 30 năm bôn ba ở nước ngoài, phải làm đủ mọi nghề để kiếm sống mà ý chí không sờn, lòng yêu nước không phai nhạt. Liêm sỉ và quốc sỉ là hai điều Người được cha – cụ phó bảng Nguyễn Sinh Sắc – dạy bảo từ khi còn thơ ấu, hai điều ấy Người đã mang theo suốt cuộc đời.
Từ một thanh niên yêu nước với tên gọi Nguyễn Tất Thành – Nguyễn Ái Quốc đã trở thành lãnh tụ vĩ đại trong phong trào giải phóng dân tộc của Việt Nam và thế giới. Người là vị Cha già dân tộc, là một ”Tiên ông”, rồi một “Thánh nhân” nhưng Người cũng lại vô cùng giản dị và gần gũi với tất cả bằng tình cảm thân thương và trìu mến. Nhà văn Sơn Tùng nói: “Sở dĩ tôi nói tôi viết về Bác Hồ cũng là viết về thời đại là bởi lẽ, trong Bác, chúng ta thấy có hình ảnh của hiền sĩ Nguyễn Trãi lòng sáng tựa sao Khuê. hình ảnh của bậc hiền quân Trần Nhân Tông rời xa chốn cung đình tu thành trên núi Yên Tử, hình thành nên phái môn Trúc Lâm. Ở Bác, chúng ta thấy hình ảnh của một bậc hiền triết phương Đông, một học giả phương Tây. Nhưng điều kì diệu lại là: khi Bác ra đồng với bà con nông dân, Người lập tức trở thành một lão nông tri điền. Bác vào nhà máy liền trở thành một công nhân chính hiệu. Khi Bác bế cháu nhỏ, hay đưa kẹo cho trẻ em thì lại trở thành một người ông rất mực yêu thương con cháu “.Hình ảnh của Bác “thật” ở mọi lúc mọi nơi, gắn bó máu thịt với từng thửa ruộng, mảnh vườn, nhà máy, là sự tiếp nối giữa truyền thống và hiện tại, là nơi hội tụ những giá trị văn hoá cao đẹp của dân tộc. Bác đi đến đâu là hoà vào ở đó, không bao giờ lẫn được .
“Bác là tâm linh” – Nhà văn Sơn Tùng nói – “Vì thế đến nay chúng ta vẫn không thể cắt nghĩa về Bác. Bác thanh tao nhưng không cách biệt”. Trầm ngâm một lát rồi như để minh chứng cho nhận định của mình ông nói tiếp: Một người bạn là thuỷ thủ của Bác ở Paris mà có lần tôi may mắn gặp được kể lại: Vào ngày giỗ thân mẫu của Bác là bà Hoàng Thị Loan mất sau 20 năm (năm 1921), tại ngôi nhà ở ngõ Côngpoăng, Bác đã nhờ ông mua hộ một con gà trống về làm thịt, mỏ ngậm bông hoa dâm bụt. Giữa Paris, Bác đã một mình khóc mẹ…”
Từ hình ảnh đó của Bác nhà văn Sơn Tùng đã viết nên tác phẩm “Hoa dâm bụt“, viết năm 1999, dày trên 400 trang. Hoa dâm bụt là thứ hoa của làng quê thôn dã, là thứ hoa rất hiền, gần gũi và quen thuộc. Trong tâm thức của người Việt Nam hoa dâm bụt tượng trưng cho lòng nhân từ của người mẹ. Bác Hồ rất yêu hoa dâm bụt nên xung quanh nhà Bác ở hoa này được trồng nhiều. Nó giống như con người của Bác vậy. Chính vì thế trong “Hoa dâm bụt” nhà văn Sơn Tùng đã gây xúc động sâu sắc cho người đọc bằng những câu chuyện ông kể. Cuốn “Trái tim của Đất“ cũng là tác phẩm nhà văn Sơn Tùng thể hiện thành công đề tài Bác Hồ.
Nhà văn Sơn Tùng có kể lại cho tôi nghe câu chuyện do đồng chí Vũ Kỳ, người đã ở bên cạnh Bác suốt hơn 20 năm: Bác thường để đài mỗi khi đi ngủ, có lần tưởng Bác ngủ quên, đồng chí Vũ Kỳ mới rón rén đến đầu giường Bác và tắt đài để Bác ngủ cho ngon. Nhưng hôm sau Bác mới bảo lại anh Vũ Kỳ rằng : “Không phải Bác ngủ quên đâu mà Bác để đó cho có tiếng người!”. Người đã vì hạnh phúc của cả dân tộc mà quên đi niềm vui của mình là có một gia đình nhỏ. Nhưng cả dân tộc Việt Nam đã là con, là cháu của Người.
Những câu chuyện về Bác rất nhiều và cảm động, không chỉ nhà văn Sơn Tùng mà nhiều nhà văn cũng cùng chung suy nghĩ “đến cả trăm năm chưa dễ thấu ngọn nguồn“.Những lời căn dặn, chỉ bảo của Bác giản dị nhưng sâu sắc, đúng đắn và thấm thía. Đến nay nhiều câu chuyện, nhiều câu nói của Bác đã thành những bài học không thể quên đối với cán bộ, chiến sĩ và nhân dân ta. Bác đi tới đâu ở đó đều trở thành kỉ niệm khó quên cho những người có mặt hoặc những ai may mắn được gặp Bác dù chỉ một lần trong đời.
Đã có không biết bao nhiêu trang sách viết về Chủ tịch Hồ Chí Minh. Riêng tác phẩm của nhà văn Sơn Tùng , con số này cũng đã lên tới vài ngàn trang. Cũng không hẳn là vì khiêm tốn mà nhà văn SơnTùng nói “Tôi mới chỉ mon men đến bên cạnh Bác”.Điều đó có một lý do, một bí mật trong con người và nhân cách, trí tuệ Hồ Chí Minh mà ai cũng biết: đó là sự kết hợp giữa sự cao cả, vĩ đại với nét giản dị đời thường trong con người Hồ Chí Minh.
Bài này được đăng lúc 13:34 ngày Thứ Sáu, 05 Tháng Ba 2010 trong mục Đánh giá - Nghiên cứu. Bạn có thể theo dõi phản hồi của bài này với dòng phản hồi RSS 2.0. Bạn có thể gửi phản hồi, hoặc trackback từ trang web của bạn.
http://thehehochiminh.net/2010/03/05/st1/


Nghiên cứu Bác Hồ, nhớ về Sơn Tùng – nhà Hồ Chí Minh học thực thụGS.TS MẠCH QUANG THẮNG
“Các chú đừng vẽ rắn thêm chân”, đó là câu Bác Hồ thường nói với những người sống gần Bác khi những người đó miêu tả, đánh giá, nhận định về một người hay một việc nào đấy. Ngay cả việc Bác Hồ thấy người khác nói, viết về mình, nặn tượng, vẽ tranh về mình, Bác cũng rất ngại, và thường là Bác khuyên người ta đừng có làm điều đó.
Thời còn là sinh viên ở trong ký túc xá của đất Mễ Trì (Hà Nội), nơi mà các lớp học trong chiến tranh phá hoại lần thứ nhất bằng không quân và hải quân của Mỹ mới từ nơi sơ tán trở về (năm 1970), có một đêm các lớp sinh viên chúng tôi đã được nghe ông Hoài Thanh, một nhà thơ có tiếng cũng là một cây bút phê bình văn học sắc sảo, nói chuyện về thơ Hồ Chí Minh, có nghệ sĩ Kim Cúc ngâm thơ “minh hoạ”. Tôi nhớ rất đậm lời ông Hoài Thanh bình rằng: “Thơ Bác hay vì đó là thơ Bác”. Có lần, trong đêm, Bác nghe Đài Tiếng nói Việt Nam, có buổi nghe thấy ông Hoài Thanh bình thơ của Bác. Một hôm, tình cờ gặp Hoài Thanh trong một hội nghị, Bác nói vui với Hoài Thanh rằng, thơ của Bác không hay đến thế; những ý tứ mà Hoài Thanh bình ở trong Đài, thì khi làm thơ, chính bản thân Bác không nghĩ đến.
Hồ Chí Minh không nhận mình là nhà thơ. Lúc trong tù của Tưởng Giới Thạch ở Trung Quốc, năm 1942, Bác tâm sự thể hiện trong bài thứ hai, tập Ngục trung nhật ký:
Khai quyển
Lão phu nguyên bất ái ngâm thi,
Nhân vị tù trung vô sở vi;
Liêu tá ngâm thi tiêu vĩnh nhật,
Thả ngâm thả đãi tự do thì.
Nam Trân dịch:
Mở đầu tập nhật ký
Ngâm thơ ta vốn không ham,
Nhưng vì trong ngục biết làm chi đây;
Ngày dài ngâm ngợi cho khuyây,
Vừa ngâm vừa đợi đến ngày tự do.
Còn trong cuộc sống hằng ngày, kể cả khi làm Chủ tịch nước, Bác làm thơ để giãi bày, để kêu gọi mọi người trong các phong trào thi đua yêu nước. Bác khiêm tốn đã đành, nhưng Bác sợ người ta “vẽ” sai mình, mà đó chính là điều quan trọng nhất.
Sự thật là những điều ai cũng có thể thấy rõ trong cuộc sống. Nhưng, không ít những sự thật bị che dấu, che lấp, bị nằm lẫn trong vô vàn cái sự rối cuộc đời. Có khi sự thật đã trở thành một thứ “trầm tích” mà nếu muốn biết rõ, hiểu rõ thì phải khai nó lên. Khác và đối lập với sự thật là những điều giả dối, xuyên tạc.
Người ta hay gây nhiễu về cuộc đời và sự nghiệp của Hồ Chí Minh. Hồ Chí Minh có vợ có con hay không là câu chuyện bị gây nhiễu nhiều nhất.
Ngày 3-11-1946, ông Nguyễn Sinh Khiêm, anh trai của Hồ Chí Minh đến thăm em, nhân lúc vui vẻ có hỏi em mình: “Tôi muốn hỏi riêng chú, việc gia đình riêng của chú ra sao?”. Hồ Chí Minh trả lời hóm hỉnh: “Cảm ơn anh, em chưa bao giờ dám nghĩ đến việc này, đến nay đã tu, tu trót, qua thì thì thôi. Em không phải là người tu hành nhưng vì việc nước quên việc nhà”[1].
Tháng 1 năm 1947, Bác Hồ viết trong bức thư¬ chia buồn khi được tin con trai bác sĩ Vũ Đình Tụng, người theo đạo Thiên Chúa, oanh liệt hy sinh cho Tổ quốc: “Ngài biết rằng tôi không có gia đình, cũng không có con cái. Nư¬ớc Việt Nam là gia đình của tôi. Tất cả thanh niên Việt Nam là con cháu của tôi. Mất một thanh niên thì hình như tôi đứt một đoạn ruột. Nhưng cháu và anh em thanh niên khác dũng cảm hy sinh để giữ gìn đất nước. Thế là họ đã làm rạng rỡ dân tộc, vẻ vang giống nòi. Họ chết cho Tổ quốc sống mãi; vật chất họ mất nhưng tinh thần họ vẫn luôn luôn sống với non sông Việt Nam. Họ là con thảo của Đức Chúa, họ đã thực hiện cái khẩu hiệu: Thượng đế và Tổ quốc”[2].
Ngày 16-7-1947, trả lời câu hỏi thứ mư¬ời của một nhà báo nước ngoài, Hồ Chí Minh nói: “Ngài đã hỏi, tôi xin dẹp sự khiêm tốn lại một bên mà đáp một cách thực thà: tôi không nhà cửa, không vợ, không con, nước Việt Nam là đại gia đình của tôi. Phụ lão Việt Nam là thân thích của tôi. Phụ nữ Việt Nam là chị em của tôi. Tôi chỉ có một điều ham muốn là làm cho Tổ quốc tôi được độc lập, thống nhất, dân chủ. Bao giờ đạt đư¬ợc mục đích đó, tôi sẽ trở về làm một người công dân du sơn ngoạn thủy, đọc sách làm vườn”[3].
Năm 1948, cũng trong thời kháng Pháp, trong cơ quan Phủ Chủ tịch ở chiến khu Việt Bắc, Hồ Chí Minh là người hay khơi các trò chơi sau giờ làm việc. Có khi đó là một buổi tối lửa trại, tự diễn tuồng, chèo, kịch tại chỗ, có cả hoạt náo viên, có khi là họa thơ, đối thơ, v.v. Trong những buổi vui vẻ như vậy, nhiều người đề nghị Hồ Chí Minh lấy vợ. Có lần Bác nói: “Các chú hỏi bao giờ Bác lấy vợ, phải không? Có hỏi thì có trả lời nhé: Không lâu nữa đâu! Bao giờ dân ta toàn thắng, Bắc – Nam sum họp một nhà!”[4]. Còn Phan Anh, khi thấy sức khoẻ của Hồ Chí Minh có phần giảm sút trong những ngày gian khổ tại An toàn khu (ATK) năm 1948 lúc Hồ Chí Minh 58 tuổi, có đề nghị Bác lập gia đình để có người thân thương hằng ngày săn sóc, thì Bác thủng thẳng nói: “Ông bảo thế tôi không phải là con người à? Tôi sống như mọi người mà. Có phải thần, thánh gì đâu Nhưng ông thấy đấy: việc nước bề bộn như vậy!”[5].
Người ta có quyền không tin những điều trên đây do chính bản thân Hồ Chí Minh viết và nói. Nhưng, ai và những tài liệu nào xác đáng để chứng minh rằng Hồ Chí Minh có vợ, có con? Không, không có tài liệu nào thuyết phục người đọc được cả.
Tôi bày tỏ quan điểm của tôi rằng: việc Hồ Chí Minh có vợ, có con hay không có vợ, không có con thì chẳng ảnh hưởng gì đến tư cách, đạo đức của Bác cả. Nếu Bác có vợ, có con, nghĩa là có gia đình riêng, thì với những gì Bác đã cống hiến cho đất nước, tôi vẫn nhận định được rằng: Hồ Chí Minh đã hy sinh lợi ích riêng tư để dâng hiến cho Tổ quốc thân yêu của mình. Không phải không có vợ con mới là hy sinh chuyện riêng tư. Chỉ có điều là nếu Hồ Chí Minh có vợ thì đấy mới là chính là một con người hoàn chỉnh, không phải là phản tự nhiên. Cũng chính vì thế mà chúng ta hay nói người vợ hay người chồng chính là một nửa bên kia của nhau. Hồ Chí Minh cũng không ít lần nói về cái khiếm khuyết của chính cuộc đời mình, và một trong những khiếm khuyết đó là không có vợ; do vậy Bác khuyên thanh niên Việt Nam đừng nên học mình về điều đó.
Nếu Hồ Chí Minh có vợ con thật thì Bác không thể giấu được trong ngần ấy năm. Giấu làm sao được trong con mắt của hàng triệu, hàng triệu con người giữa thế gian, ở đất nước Việt Nam của Bác và cả ở trên thế giới. Người bình thường đã khó giấu, huống hồ Bác lại là một người nổi tiếng, Bác là con người của công chúng, thì lại càng khó giấu hơn. Tục ngữ Việt Nam có câu: “Cái kim trong bọc lâu ngày rồi sẽ lòi ra”. Đã rất lâu ngày, nhưng cái bọc không thấy lòi ra một cái kim nào cả. Làm gì có cái kim nào.
Sơn Tùng là người rất rành và rất đúng đắn về việc nghiên cứu Hồ Chí Minh. Sơn Tùng là nhà viết văn, nhà báo, nhà thơ. Ông đã có thơ mà Nhạc sĩ Lê Việt Hoà đã phổ nhạc (bài Gửi em chiếc nón bài thơ). Nhưng điều này thì không phải ai cũng biết: cả cuộc đời ông nghiên cứu Hồ Chí Minh một cách say mê, nghiêm túc, chỉn chu, đầy bản lĩnh. Sơn Tùng đi nhiều, viết nhiều, mà đề tài dường như chuyên sâu nhất là về Hồ Chí Minh, mà tác phẩm nổi tiếng nhất, có tiếng vang nhất của ông là Búp sen xanh đến nay đã tái bản hơn 30 lần, được dịch ra nhiều thứ tiếng (Tác phẩm này có lúc bị “đánh” một cách phũ phàng, vô lối).
Sơn Tùng lao động, tìm hiểu vấn đề một cách say sưa, tận tụy với công việc, cày sâu, cuốc bẫm, thâm canh trên mảng đề tài Hồ Chí Minh. Điều đáng ngạc nhiên là ông là một thương binh nặng nhất trong thang bậc xếp hạng hiện nay ở nước ta (hạng 1/4), hiện vẫn còn mảnh đạn ở trong đầu, vết thương vẫn còn hành hạ ông. Mấy buổi chiều mới chớm hạ năm 2007, lần theo cái ngõ nhỏ ồn ã, gập ghềnh, lổn nhổn đầy ổ gà, tôi đến thăm Sơn Tùng và nhân đó ngỏ ý mời ông đến trao đổi ý kiến chung quanh vấn đề nghiên cứu Hồ Chí Minh cho nhóm nghiên cứu của tôi ở Học viện Chính trị – Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, nhưng thấy ái ngại quá cho ông. Những ngày đó, thi thoảng Sơn Tùng vẫn bị máu rỉ từ tai ra.
Thường thì những buổi chiều trong căn hộ xinh nhỏ của Sơn Tùng mà ông gọi là Chiếu Văn ở trên gác hai chung cư ngõ Văn Chương chật hẹp, bất cứ mùa hè nóng bỏng hay mùa đông buốt giá, vẫn thế, vẫn hiện một con người nhỏ thó, đầy nghị lực, ngồi tiếp khách theo lối thiền, không bàn, không ghế mà ngồi bệt xuống sàn gỗ. Tiếng con chim cu gáy sống tự do không lồng như một thành viên trong gia đình Sơn Tùng, nó hay đứng trên giá sách cất tiếng gù chào mỗi khi có khách đến nhà, thật vui, mà ông gọi đó là “tiếng vàng cu gáy mênh mang thành phố vào Xuân” (Rất tiếc, mèo đã bắt trong một lúc chủ nhà sơ sẩy). Sơn Tùng và gia đình ông sống một cuộc sống đạm bạc. Hằng ngày, Sơn Tùng vẫn thiền như là một phương thuốc cực kỳ hiệu nghiệm cho cuộc sống.
Bởi vậy, đến nay, Sơn Tùng đã hơn 80 tuổi nhưng vẫn minh mẫn, vẫn viết đều. Trong những buổi chiều tà mùa đông trước đó, vào những năm cuối thế kỷ XX, trong tiếng gió bấc rít dài từng cơn đập vào cánh cửa tầng hai khu chung cư cổ lâu ngày thiếu sự trung tu có vẻ ọp ẹp, trong cái màn mưa phùn như bụi giăng đầy ngõ nhỏ Văn Chương của phố Khâm Thiên (Hà Nội), Sơn Tùng nói cho tôi những điều sâu lắng về Hồ Chí Minh. Ông nói chậm rãi, khúc triết, mắt của người thương binh chống Mỹ ấy nhìn xa xăm như rọi thấu vào quá khứ, lôi nó trở về với cuộc sống ồn ã chốn thị thành ngõ nhỏ nơi gia đình ông đang ở. Giọng Diễn Châu xứ Nghệ gốc của Sơn Tùng không lẫn vào đâu được, phảng phất âm điệu của miền bắc phát ra ở xứ Nghệ. Không biết cái âm điệu ngôn ngữ ấy gốc là từ bắc vào hay lại chính từ gốc Diễn Châu lan ra bắc? Chưa biết chừng.
Qua nhiều buổi tôi nghe ông nói hoặc tôi hóng chuyện ông nói với người khác tại căn hộ nhỏ của ông, thì ra, có ba điều tôi ngỡ ngàng.
Thứ nhất, trong các tác phẩm của Sơn Tùng, dù là bài báo, là tiểu thuyết, là ký, v.v. thì đều từ cái nền nghiên cứu khoa học của ông mà ra. Ông nghiên cứu theo kiểu riêng của ông, tỷ mỉ, cẩn trọng, theo phương pháp khoa học, có đối chiếu, có kiểm định. Có nhiều sự kiện, Sơn Tùng đến tận nơi nghiên cứu, xem xét, kiểm định, đối chiếu, có những lúc khó khăn hoặc vết thương tái phát không tự mình đi được thì phu nhân của ông đưa đi. Sơn Tùng chính là nhà Hồ Chí Minh học thực thụ. Ông biểu đạt những kết quả nghiên cứu của ông về Hồ Chí Minh cho bàn dân thiên hạ biết theo cách riêng của ông, và chỉ mình ông, độc nhất vô nhị, mới có có cái cách đó.
Thứ hai, gia đình Sơn Tùng có quan hệ họ hàng với Hồ Chí Minh. Bà nội Sơn Tùng (Cụ Hà Thị Tự), là cháu họ bà nội Hồ Chí Minh (Cụ Hà Thị Hy). Em trai ông nội của Sơn Tùng đỗ tú tài cùng khoa với em trai ông ngoại Hồ Chí Minh. Đã từ lâu, từ trong kháng chiến chống Pháp 9 năm, Sơn Tùng đã có ý thức tìm hiểu, nghiên cứu về gia đình họ tộc Hồ Chí Minh, đã đến Kim Liên nhiều lần hầu chuyện và được chị, anh của Hồ Chí Minh là bà Nguyễn Thị Thanh và ông Nguyễn Sinh Khiêm hết sức tin cậy. Điều này thì Giáo sư Phan Ngọc đã viết trong mấy trang đầu cuốn Hoa râm bụt của Sơn Tùng lần xuất bản của Nhà xuất bản Thông tấn năm 2007.
Thứ ba, bên trong và đằng sau những trang ký, những tiểu thuyết, những bài báo của ông là ngồn ngộn những tư liệu về Hồ Chí Minh mà Sơn Tùng đã mã hoá theo cách riêng của mình. Ở Sơn Tùng, có sự tổng hoà tư chất của một nhà văn, nhà thơ, nhà báo, nhà viết kịch bản văn học và, tôi nhấn mạnh, nhà khoa học cộng với tình cảm của một chiến sĩ kháng chiến bảo vệ nền độc lập, tự do của Tổ quốc theo tiếng gọi của Hồ Chí Minh cũng như ý thức trách nhiệm của một công dân, một kẻ sĩ thời đổi mới.
Sơn Tùng có nhiều tài liệu về người con gái đem lòng yêu Hồ Chí Minh, và bản thân Hồ Chí Minh cũng đem lòng yêu người con gái đó. Tôi cho rằng, trong cuộc đời Hồ Chí Minh có như vậy là sự thường. Tình yêu thời trai trẻ, tại sao không? Một thanh niên thư sinh, đẹp trai, hào hoa, phong nhã, lại là con của một người đỗ đại khoa (Phó bảng), con quan, con nhà gia giáo mà không rung động trước phái đẹp, mà lại không yêu một người con gái nào đó, cũng như không có người con gái nào yêu mình, mới là sự lạ. Nhưng Sơn Tùng khẳng định một cách chắc chắn, có cơ sở, rằng Hồ Chí Minh chưa bao giờ có vợ con.
Đã có không ít người cho rằng, Hồ Chí Minh có một người vợ là người Pháp, một là người Đức, một là người Nga, hai bà là người Trung Quốc, hai người vợ Việt Nam, v.v. Và, đương nhiên câu chuyện và danh sách vợ con của Hồ Chí Minh, theo họ, chưa dừng lại ở đó. Ngay cả nhà nghiên cứu, giáo sư Hoàng Tranh (Học viện Khoa học xã hội Quảng Tây – Trung Quốc hiện đã nghỉ hưu) cũng đã có bài viết tương đối dài đăng trong Tạp chí Đông Nam Á Tung hoành, số 11-2001 (Trung Quốc) đề cập về cuộc sống chồng – vợ Hồ Chí Minh – Tăng Tuyết Minh (người Trung Quốc). Nhưng, tôi đã đọc rất kỹ bài viết của Hoàng Tranh thì thấy rằng, lập luận và những chứng cớ mà ông nêu ra không có sức thuyết phục. Mấy cuốn sách, bài báo của một số người ngoài nước chẳng rõ thật hư ra sao về vấn đề này, lại viết theo Hoàng Tranh.
Hồ Chí Minh là người hoạt động bí mật nhiều năm trời, cho nên không phải những gì mà tài liệu viết về Hồ Chí Minh đều là đúng sự thật, mặc dù đó là những tài liệu báo cáo chính thức, tài liệu lưu trữ trong kho lưu trữ của Liên bang Nga từ năm 1992 (tiếp nối Lưu trữ của Đảng Cộng sản Liên Xô, tại phông Lịch sử Chính trị-xã hội). Vì một số người không đặt vào hoàn cảnh đó khi nghiên cứu, cho nên mới dựa vào tài liệu báo cáo của Đại hội I Đảng Cộng sản Đông Dương và tài liệu lưu trữ ở Liên bang Nga để nhận định không đúng rằng, Hồ Chí Minh với Nguyễn Thị Minh Khai là vợ chồng.
Đấy là chưa kể có những người cố tình xuyên tạc, thêu dệt ly kỳ mặt “tình ái” của Hồ Chí Minh với mục đích bôi xấu Bác, cho rằng Hồ Chí Minh chính là người bội bạc; rằng không phải Hồ Chí Minh là người đấu tranh giải phóng con người, đặc biệt là đấu tranh giải phóng phụ nữ, mà Hồ Chí Minh chỉ coi phụ nữ chỉ là đồ chơi; rằng, Hồ Chí Minh là con người nói dối, v.v. Tôi nghĩ rằng, nếu Hồ Chí Minh có đến 7 bà vợ và nhiều con như thế thì khi Việt Nam đang có chiến tranh ác liệt như vậy thì nhiều bà vợ chưa đến đất nước chồng mình đã đành, nhưng khi Việt Nam đã hoà bình rồi, khi Hồ Chí Minh đã nằm yên bình trong Lăng ở Ba Đình – Hà Nội rồi nhưng vẫn không có bà vợ nào (nếu còn sống), con cái nào của Hồ Chí Minh đến thăm. Làm gì có! Nhiều người cứ úp úp mở mở, viết và nói cứ lấp la lấp lửng làm ly kỳ hóa cái chuyện vợ con của Hồ Chí Minh.
Tôi đồng ý với Sơn Tùng khi đàm đạo với ông về chuyện này. Ông “lý sự” rằng, các ông Trường-Chinh, Phạm Văn Đồng nhà có mấy đời đội mũ cánh chuồn mà khâm phục cái tâm, cái đức của Hồ Chí Minh và được cảm hoá từ nhân cách Hồ Chí Minh thì không phải chuyện vừa; giả sử Hồ Chí Minh là người cứ lăng nhăng, lít nhít về chuyện tình ái thì các ông ấy cạch, không bao giờ đi theo Hồ Chí Minh. Cổ nhân trên thế giới đã nói: Rendez à César ce qui est à César (Hãy trả lại cho Xêda những cái gì thuộc về Xêda). Sự thật bao giờ cũng là sự thật.
Tôi thực sự thích thú cái cách nghiên cứu và thể hiện về Bác Hồ trong các tác phẩm của Sơn Tùng, một cách thể hiện đúng, sâu đậm về tình cảm nhưng không có gì là “thần thánh hoá”.
Việc giải thích điều này có cái khó của nó. Ý dân và lòng dân thì đã phong thánh cho Hồ Chí Minh một cách tự nhiên rồi. Sơn Tùng đã viết trong tác phẩm Hoa râm bụt của mình (xuất bản nhiều lần, lần gần đây nhất là Nxb Thông tấn, Hà Nội, 2007) ở bài “Một bài học làm người”, trang 388: các cụ đồ Nho năm 1947 ở quê Sơn Tùng (Diễn Châu, Nghệ An) luận về đôi mắt Hồ Chí Minh rằng, “Mắt Cụ Hồ là thiên nhãn, là lưỡng mục trùng đồng đích thị thánh nhân. Thánh nhân chứ không phải thánh thần”. Các cụ nói rằng, Thánh Gióng trong huyền thoại nhưng mang đầy đủ đức tính Con người. Con người hoàn thiện đều thành thánh. Trần Quốc Tuấn Hưng Đạo Đại Vương là bậc nhân tướng, văn võ song toàn, lúc sống ngài cứu nước hộ dân, khi thác ngài hiển thánh. Đó là đức Thánh Trần, là thánh nhân. Ngày nay, Hồ Chí Minh là vị thánh sống. Dân mình mới thấm thía hơn ai hết nỗi nhục của cái kiếp làm thân trâu ngựa. Dân phong thánh cho người thực sự cứu nước, thương dân chứ đâu phải vua chúa! Vua chúa chỉ nhớ đến dân khi có giặc ngoại xâm, vua chúa thương dân thì ít thấy…
Tôi đồng ý với Sơn Tùng khi ông viết lại lời các cụ đồ Nho trên đây và lời cảm bình của chính bản thân ông. Đọc hồi ký của một số chính khách, một số nhà hoạt động chính trị, xã hội ở nước ngoài, thấy có một số nhận định liên quan đến Hồ Chí Minh về mặt này. Nhưng, giữa vấn đề dân phong thánh cho Hồ Chí Minh hoặc một số người cho là Hồ Chí Minh là ông thánh với vấn đề trong nghiên cứu tránh việc thần thánh hoá Hồ Chí Minh là hai chuyện khác nhau.
Thường thì ở đời, ngợi ca thì dễ, chê bai thì khó, vì chê là khó lọt cái lỗ tai con người lắm. Khen đúng, chê đúng mới là điều cần làm. Khi đã thiên lệch, thì có khi người ta khen hết lời, dùng những tính từ đẹp nhất, dùng đại ngôn để gán cho một người nào đó mà mình muốn khen. Cũng có khi thiên lệch thì lúc chê, người ta chê hết lời, bôi đen, nói xấu từ đầu tới chân. Sự thật là tiêu chuẩn cao nhất mà nhà khoa học nói chung cũng như nhà sử học nói riêng phải tôn trọng. Trình bày đúng sự thật như con người Hồ Chí Minh vốn có thì không dễ dàng một chút nào. Trong việc này, tôi không bàn đến người nghiên cứu có trong tay số lượng và chất lượng các tài liệu cần thiết, là bột để “gột nên hồ”, tuy rằng điều này là thực sự cần thiết mà thiếu nó thì nhà khoa học không thể dựng lại được một bức tranh toàn cảnh đúng như nó có. Cái phần quan trọng không kém là nhà khoa học không được tô hồng hay bôi đen sự thật. Đây chính là tư cách đích thực của nhà khoa học mà nếu vi phạm thì người đó không còn là nhà khoa học nữa.
Bản chất của cả hai khuynh hướng tô hồng hay bôi đen chỉ là một: đó là sự bóp méo, sự làm sai lệch sự thật lịch sử. Không phải là việc bôi đen có hại hơn việc tô hồng, mà cả hai đều có hại như nhau. Đừng tưởng bất cứ sự ngợi ca nào đều là cộng vào cho Hồ Chí Minh. Sự ngợi ca không có cơ sở chắc chắn, không khoa học, mà tôi gọi đó là sự tô hồng, thì, như đã viết theo lời của ông Việt Phương , đều trừ đi chứ không thể nào là cộng vào cho Hồ Chí Minh.
Hồ Chí Minh đi vào đời sống tâm linh của nhân dân Việt Nam là bởi cái nhân, cái nghĩa, cái trí, cái dũng, cái liêm, cái tín của Bác đã cảm hoá được ý thức văn hoá đa thần của nhiều người Việt Nam. Người ta tôn thờ Hồ Chí Minh, thắp hương trên bàn thờ, treo ảnh Hồ Chí Minh để thờ, lập đền thờ…là lẽ tự nhiên của tâm linh, của thái độ ứng xử của người Việt Nam đối với Hồ Chí Minh. Đó là “văn hoá đền”, văn hoá tâm linh. Đó là sự tự cảm từ mỗi con tim mỗi người, là ý thức cộng đồng với những người đã khuất, mong người đã khuất đi theo người đang sống, chở che, răn dạy những người đang sống.
Hồ Chí Minh đi vào lòng người dân không thần bí, không huyền thoại, tuy rằng, nhiều câu chuyện kể về Bác có vẻ đượm màu huyền thoại. Hồ Chí Minh hiện hữu như một nhân vật cùng với hiện tại, khi mà con người ta sống, để người ta cầu mong và hành động như mình, vì những điều thánh thiện.
Trong nghiên cứu Hồ Chí Minh, điều thích hợp hơn cả là tuân thủ nguyên tắc lịch sử – cụ thể, là xem xét một cách toàn diện các mối liên hệ lịch sử cơ bản. Phải xem xét Hồ Chí Minh trong một chỗ đứng cụ thể và sự phát triển của các quan điểm của Người ra sao. Một điều chắc chắn là Hồ Chí Minh là một thực thể trong một hoàn cảnh lịch sử cụ thể nhất định. Hồ Chí Minh bị thực tế lịch sử chế định, và chính bản thân Bác cũng chế định lại lịch sử. Hồ Chí Minh có những thành công trong cuộc sống nhưng Bác cũng có những điểm không thành công, những hạn chế chủ quan. Đúng là nhân vô thập toàn. Bởi vì chính bản thân Bác cũng quan niệm: người đời ai cũng có khuyết điểm cả, không nhiều thì ít, không lớn thì bé; trừ khi người ta nằm trong bụng mẹ và cái lúc người ta nằm trong quan tài, còn lại trong cuộc đời mọi người đều có khuyết điểm.
Thần thánh là những “nhân vật” không có thực, nếu có thì từ con người có thực nào đó, người ta đã làm cho linh thiêng con người đó lên (tâm linh hoá), con người đã khái quát, trừu tượng hoá theo cảm nhận riêng. Nếu thần thánh hoá Hồ Chí Minh trong nghiên cứu cuộc đời, sự nghiệp của Bác thì rất dễ biến những lời nói, những quan điểm của Bác thành những công thức định sẵn, xơ cứng, như giáo lý nào đấy- điều mà Hồ Chí Minh rất kỵ và đã không ít lần nhắc nhở là: đối với bất kỳ điều gì, của ai, của nước nào, cũng phải sáng tạo, phát triển, vận dụng cho phù hợp với từng lúc, từng nơi. Thần thánh hoá là lối nghiên cứu dễ dãi nhất và dẫn đến sai lầm lớn nhất.
Cái điều mà nhiều người đã viết Hồ Chí Minh là vĩ đại, là thiên tài, là lỗi lạc, là kiệt xuất (4 cặp từ) hoá ra nhiều khi lại biểu đạt trong những hành động rất bình dị nhưng cũng đầy cảm động mà Bác đã làm.
Đó là cử chỉ đi dém chăn cho bộ đội ngoài mặt trận để bộ đội có giấc ngủ ngon trong đêm đông.
Đó là nỗi nhớ thương đối với đoàn dân công đêm phải ngủ ngoài rừng.
Đó là những bữa nhịn ăn để dành gạo cứu những người đang đói khi nước nhà mới giành được độc lập.
Đó là những bức thư chia buồn, động viên, những buổi đi thăm các thương binh, gia đình liệt sĩ, gia đình có công với nước.
Đó là những buổi lội ruộng cấy lúa bằng máy cấy thí nghiệm, những buổi tát nước gầu dai, đạp nước gầu guồng chống hạn.
Đó là những buổi cùng bà con ngư dân Thanh Hoá kéo rùng đánh cá nhân dịp đi nghỉ ở biển Sầm Sơn.
Đó là những buổi lội ruộng thăm bà con nông dân, lấy gang tay ước đo rễ cây lúa.
Đó là những buổi trầm ngâm làm thơ khi trăng vào cửa sổ.
Đó là hình ảnh Bác cầm bó hoa hoặc một bông hoa tặng cho cháu gái và cho khách nước ngoài.
Đó là hình ảnh Bác chẻ củi, hình ảnh vác cuốc đi tăng gia sản xuất.
Đó là hình ảnh Bác đang gõ máy chữ tuôn ra những dòng chữ phục vụ cho quốc kế dân sinh.
Đó là dáng Hồ Chí Minh cưỡi ngựa hiền, con ngựa do đích thân ông Vi Văn Định chọn cho, thoăn thoắt đi công tác ở chiến khu Việt Bắc.
Đó là hình ảnh Hồ Chí Minh đi bài quyền giản lược, những buổi Hồ Chí Minh tập võ thuật cùng anh em cảnh vệ.
Đó là những buổi Hồ Chí Minh đánh bóng chuyền với anh em cơ quan, mà anh em hay đùa ông bằng cách cứ được bóng là bỏ nhỏ tới vị trí Bác đang đứng làm cho Bác cứ loay hoay hoài trong sân bóng.
Đó là hình dáng Hồ Chí Minh lịch thiệp, hào hoa, rất “tây”, nhanh nhẹn “vít cổ” những người bạn nước ngoài để ôm hôn thắm thiết.
Đó là lần Hồ Chí Minh cầm gậy chỉ bản đồ chiến sự.
Đó là dáng hạc của Hồ Chí Minh đích thân đi Chiến dịch Biên Giới năm 1950.
Đó là ánh mắt bừng sáng của Hồ Chí Minh khi tiếp các cháu thiếu niên, nhi đồng.
Đó là dáng “nhạc trưởng” Hồ Chí Minh hiền hoà cầm đũa chỉ huy dàn nhạc bài “Kết đoàn” ở vườn Bách thảo (Hà Nội) năm 1960.
Đó là hình Hồ Chí Minh ngồi khoan thai, đĩnh đạc chủ trì cuộc họp của Bộ Chính trị Trung ương Đảng.
Đó là tiếng nói ấm, vang như tiếng chuông của Hồ Chí Minh khi đọc lời kêu gọi đồng bào và chiến sĩ cả nước.
Đó là cái nheo mắt nhìn về phương nam xa xôi, là nỗi suy tư, trăn trở của Hồ Chí Minh về miền Nam, Bác tự nhận mình là người chưa làm tròn nhiệm vụ đối với đồng bào miền Nam, “đi đến nơi nhưng về chưa đến chốn”.
Đó là niềm rạng rỡ trong ánh mắt, nét mặt của Hồ Chí Minh khi nhận được tin chiến thắng miền Nam.
Vân vân và vân vân.
Tôi cảm thấy rằng, viết về Hồ Chí Minh cũng dễ mà cũng khó. Dễ là bởi vì những điều Hồ Chí Minh sống và làm việc, những điều Hồ Chí Minh nói và viết là những lời lẽ của bình dân. Khó là bởi vì, cuộc đời Hồ Chí Minh chính là phản ánh những điều cao cả qua những cái bình dị. Hồ Chí Minh như mọi người chúng ta mà thôi, nhưng cũng khác chúng ta bởi vì Bác làm được tất cả những điều bình dị mà cao cả ấy một cách tự nhiên, hầu như dễ dàng như hít thở khí trời, như sinh ra là để làm những điều như vậy. Hồ Chí Minh là con người bằng xương bằng thịt ở ngay trước mắt chúng ta, ở trong tâm khảm của mỗi người Việt Nam yêu nước, chứ không phải là điều tưởng tượng, không phải thánh thần quanh quất đâu đây.
Một số người nước ngoài, trong đó có cả nhà khoa học và nhà bình luận chính trị, không hiểu được hết tấm lòng người dân Việt Nam yêu nước đối với Hồ Chí Minh. Do đó, trong một số bài viết, trong một số sách của họ viết về Việt Nam, viết về Hồ Chí Minh, có lúc họ thiên về cái ý là ở Việt Nam có sùng bái cá nhân Hồ Chí Minh. Hiểu sùng bái cá nhân là hiểu theo nghĩa xấu, như ở trên thế giới đã có một số người được sùng bái cá nhân như vậy, rồi thì cuộc đời của họ về sau chẳng ra làm sao cả. Đối với Hồ Chí Minh ở Việt Nam, tuyệt nhiên không có tệ sùng bái cá nhân, không có sự thúc ép của bất kỳ tổ chức nào, mà đó là sự tự thôi thúc của bao con tim, khối óc của đồng bào của mình mà Hồ Chí Minh đã gắn bó.
Lòng người khó đo. Đúng như thế. Chẳng có cái thước nào đo được lòng người. Nhưng tấm lòng của nhân dân Việt Nam đối với Hồ Chí Minh thì đã được thử thách qua bao nhiêu năm tháng của cuộc đời, có thể đo được một cách rõ ràng. Vì thế, Hồ Chí Minh đã đi vào cõi bất tử. Nói thế cho có văn có vẻ, nhưng nôm na thì hình ảnh Hồ Chí Minh có trong tấm lòng của những người Việt Nam yêu nước qua các thế hệ kế tiếp nhau. Đặc biệt, Hồ Chí Minh – cuộc đời, sự nghiệp, tư tưởng, đạo đức, tác phong của Bác — đã trở thành giá trị văn hoá của dân tộc Việt Nam. Mà khi đã trở thành giá trị văn hoá thì chúng thẩm thấu và truyền một cách tự nhiên theo chiều dài sự phát triển của dân tộc. Hơn thế, những giá trị văn hoá đó được bảo tồn và phát huy thêm qua bao nhiêu năm tháng như dòng sữa mẹ nuôi con người ta lớn lên.
Hồ Chí Minh đã trở thành giá trị văn hoá trong tài sản văn hoá của dân tộc. Giá trị đó là bất diệt vì nó có ích, nó thẩm thấu, nâng cao nền văn hoá Việt Nam cả trong tương lai.
Đã nhiều lần đọc tác phẩm của Sơn Tùng, đã nhiều lần hầu chuyện Sơn Tùng, tôi đã cảm được những điều trên đây mà Sơn Tùng đã phổ cho tôi.
Mong Sơn Tùng mạnh khoẻ, nói và viết cho đời nhiều tác phẩm hơn nữa.
________________________________________
[1] Theo Bá Ngọc, Trần Minh Siêu: Chuyện kể bên mộ bà Hoàng Thị Loan, Nxb Thanh niên, Hà Nội, 2007, tr. 74.
[2] Xem Hồ Chí Minh: Toàn tập, T. 5, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, tr. 40.
[3] Hồ Chí Minh: Toàn tập, T. 5, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, tr. 171-172.
[4] Theo Vũ Đình Hoè: Pháp quyền nhân nghĩa Hồ Chí Minh, Nxb Văn hoá Thông tin, Trung tâm Văn hoá Đông Tây, Hà Nội, 2001, tr. 151.
[5] Như trên.
Bài này được đăng lúc 18:11 ngày Chủ Nhật, 03 Tháng Một 2010 trong mục Chuyên mục tổng hợp, Diễn đàn "Hồ Chí Minh học", Đánh giá - Nghiên cứu.
http://thehehochiminh.net/2010/01/03/nghien-c%e1%bb%a9u-bac-h%e1%bb%93-nh%e1%bb%9b-v%e1%bb%81-s%c6%a1n-tung-nha-h%e1%bb%93-chi-minh-h%e1%bb%8dc-th%e1%bb%b1c-th%e1%bb%a5/

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét